20/01/2022 2528
Lá số 399 luận giải tử vi nam mệnh Cự Đồng (Cự Môn, Thiên Đồng), đương số là người có thể làm chủ về bản thân mình nhưng có khi vì thời thế ủng hộ nhiều mà thành ra thiếu đi động lực phấn đấu, bản thân là người tham vọng và luôn cố hoàn thành mục tiêu của mình cho nên cần phải năng động, mạnh mẽ thì mới có thể đạt được nhiều điều mình muốn. Cung Mệnh của đương số đóng ở cung Ất Sửu là thuộc về Hải trung kim tứ cục. Nó có biểu tượng rằng đương số là người có tính khí trầm và trụ. Thiên phú được trời đất ban cho khí chất ưu tú, nhưng lại có khuynh hướng bị động, cần phải dựa vào sự trợ giúp của ngoại lực thì mới phát huy được hết thực lực của bản thân. Đây cũng còn là con người có tâm cơ kín đáo, nhưng đáng ngạc nhiên là dù gặp tri kỷ thân cỡ nào thì họ cũng khó bộc bạch hết ruột gan của mình ra bên ngoài cho người ta biết.
Sinh ngày 19/07/1983 vào lúc 13h45 dương lịch.
Tức ngày: 10/06/Quý Hợi giờ Ngọ âm lịch.
Bát Tự : Quý Hợi – Kỷ Mùi – Mậu Thân – Mậu Ngọ
Gia Thế: Hiện nay đang làm chủ doanh nghiệp. Cha mẹ ly hôn tử nhỏ, đương số sống với mẹ, có anh chị em dị bào, về bản thân đương số lấy 2 người vợ và có 3 con đủ gái trai
Sức khỏe không tốt, hay bị ốm. Bản thân thấy mình là một người có hoài bão lớn, muốn dốc toàn lực cho sự nghiệp và có thể chịu được áp lực lớn, bản thân có duyên với tâm linh
Xét yếu tố tiên thiên thì đương số có Mệnh Đại Hải Thủy, Cục Kim. Về ngũ hành thì Kim sinh Thủy, Cục sinh Mệnh do đó đương số là người có thể làm chủ về bản thân mình nhưng có khi vì thời thế ủng hộ nhiều mà thành ra thiếu đi động lực phấn đấu, bản thân là người tham vọng và luôn cố hoàn thành mục tiêu của mình cho nên cần phải năng động, mạnh mẽ thì mới có thể đạt được nhiều điều mình muốn. Cung Mệnh của đương số đóng ở cung Ất Sửu là thuộc về Hải trung kim tứ cục. Nó có biểu tượng rằng đương số là người có tính khí trầm và trụ. Thiên phú được trời đất ban cho khí chất ưu tú, nhưng lại có khuynh hướng bị động, cần phải dựa vào sự trợ giúp của ngoại lực thì mới phát huy được hết thực lực của bản thân. Đây cũng còn là con người có tâm cơ kín đáo, nhưng đáng ngạc nhiên là dù gặp tri kỷ thân cỡ nào thì họ cũng khó bộc bạch hết ruột gan của mình ra bên ngoài cho người ta biết. Đương số cũng còn là mẫu người có tinh thần dễ sa sút, suy nhược, khi gặp thất bại thường tự than thân trách phận, muốn thoát ra khỏi điều này thường phải hao tổn rất nhiều trí lực và thể lực của bản thân mới làm được. Ở phương diện khác thì người tọa Mệnh Thân ở cung Sửu thì đa số là mẫu người có nhân sinh quan khá cô độc, cao ngạo, không hợp quần chúng, mắc phải phức cảm vĩ cuồng, mình sẽ là vĩ nhân hoặc là một nhân vật vô cùng quan trong. Phần nhiều đương số sẽ thuộc về tầng lớp chủ quản, làm ông chủ, làm quan nếu gặp sao hội họp tốt. Điều đáng nói là bản thân đương số sẽ biết được giới hạn của mình, dù tư duy rất phóng túng, hành sự nhiều lúc cũng xung động nhưng không vượt quá xa những điều mà họ coi là quy tắc chuẩn mực. Cung Sửu chính là đất mộ kim cho nên nó tàng ẩn, cất giấu đi sự mạnh mẽ, quyết liệt. Chính vì thế khi mệnh ở cung vị này thì đương số là người khá cương trực, mộc mạc, cũng khá nhẫn nại, vất vả; giàu cũng sẽ liều mà nghèo thì cũng sẽ liều mạng. Lúc hiện thực bức bách thì tự bản thân sẽ cho rằng không làm không được, dù có biến thành người giàu có, đại phú gia đi chăng nữa thì đối với thế giới sự vật xung quanh cũng khá là xem nhẹ đồng tiền, ta đến với trần gian này là để trả nợ, trả cái nợ lao tâm, cái nợ lao lực; đó là tâm niệm sâu xa của người có cung Mệnh tọa đất Sửu.
Đi vào phân tích cung Mệnh thì có hai chính tinh tọa thủ là Cự Môn và Thiên Đồng đều hãm địa, cung Mệnh lại có Hóa Quyền, Kình Dương, Tang Môn; hội tam phương tứ chính có Không Kiếp, Tả Hữu, Thiên Việt, Khốc Hư…, án ngữ cung là Tuần lẫn Triệt. Trước tiên xem xét Cự Môn thì nó chính là ám tinh trong Tử Vi Đẩu Số còn Thiên Đồng là chủ về tình cảm và tâm trạng hội Tang Môn, Khốc Hư thì chính thực là tình cảm và tâm trạng của đương số khá u ám, tận trong sâu thẳm tâm hồn của cuộc đời sẽ có nhiều nỗi đau thầm kín mà ít có thể tỏ bày cùng ai được. Tang Môn, Khốc Hư làm tâm trạng cảm thấy khá bất mãn, âu sầu, Tuần Triệt lại án ngữ Mệnh cho nên muốn đột phá bung ra ngoài để tâm sự thì khó khăn vô cùng. Ẩn tình này sẽ bị che giấu triền miên, coi như là nỗi đau đi theo suốt đời bời vì Mệnh Thân đồng cung như hình với bóng. Cũng may mắn đó là do Cự Môn Hóa Quyền mà làm cho Thiên Đồng cũng gặp được Quyền cho nên đương số không bị ủy mị; chỉ gặp vướng mắc là nếu ai kích phát vào ẩn tình này thì dễ bị nhận hậu quả không tốt từ đương số khi có Không Kiếp, Kình Dương phát động. Nhưng những ý tượng này cùng với thông tin đương số đưa cho thì có thể nói nó sẽ ảnh hưởng từ lúc nhỏ mà theo thời gian lớn lên sẽ giảm dần vì mức độ chín chắn của suy nghĩ theo thời gian và không gian sẽ khác đi nhiều. Nói tới điều này là vì nếu trạng thái ở lúc nhỏ mà bị động chạm vào nỗi đau thì đương số chỉ phát tiết trong hành động và có thể xảy ra xô sát mà thôi. Tuy nhiên, khi đương số học hỏi được nhiều điều trong cuộc sống thì với Cự Môn Hóa Quyền thì chủ về quyền uy ở phương diện lời nói; một lời nói ra là muốn thể hiện uy quyền của mình, có phong thái làm thầy người ta, cung Mệnh lại ở thế Đế Vượng do vậy mà dù có xảy ra thị phi đi chăng nữa thì cũng có thể dùng khẩu tài của mình mà thuyết phục và lấn át được người khác. Cách cục Cự Môn Hóa Quyền này do không gặp Văn Xương, Văn Khúc cho nên đi về đường dạy học, thầy giáo thì không hợp, nhưng có Tả Hữu, Không Kiếp, Kình Dương có thể làm giàu trong cảnh tranh tối tranh sáng, làm việc trong hoàn cảnh môi trường có nhiều cạnh tranh, đấu đá nhau khốc liệt, có khi đương số sẽ phất lên làm giàu trong bàng môn hắc đạo cũng nên. Ở đây cũng cần xem xét lại vấn đề của Thiên Đồng. Nó là sao tinh thần cho nên cần phải được kích phát thì mới có sự hữu dụng cần thiết; do vậy việc Thiên Đồng gặp Kình Dương, Không Kiếp thì có thể lại hay chứ không phải là xấu, chỉ là phải đối đầu với tình hình khó khăn lúc đầu, trải qua gian nguy mới thu hoạch được lợi ích. Và Thiên Đồng này cũng may mắn khi tạo thành tổ hợp Cự Đồng mà lại có Cự Môn Hóa Quyền cho nên sẽ ổn định được tâm trạng, có thể đối phó được với tâm trạng sầu khổ hay những nỗi đau thầm kín trong đời. Sao chủ Mệnh của đương số là Cự Môn và sao chủ thân là Thiên Cơ do đó mà Mệnh Quan của đương số có ảnh hưởng rất lớn trong đời, nghĩa là đương số là người luôn đặt tâm cơ vào việc phấn đấu cho sự nghiệp của chính mình, luôn dùng khẩu tài của mình kết giao quan hệ và nỗ lực hết sức để leo lên đỉnh của danh vọng chứ không cam chịu kiếp sống làng nhàng.
Trong mệnh bàn Tử Vi Đẩu Số ngoài việc cung Mệnh và Thân có sự tương tác cao lên con người và số phận đương số, còn có một số sao Hóa tác động lên cũng không kém. Hóa Lộc là khởi điểm cho những khát vọng, những tâm sự thầm kín, những gì còn ấp ủ của đương số. Hóa Lộc trong mệnh bàn này đóng ở cung Tật Ách. Nó chủ về thế giới tình cảm và sức tưởng tượng nội tâm của đương số giống như hầm mỏ, không có cách nào khai thác hết được và cũng không thể nào biết được mức độ trữ lượng của nó. Tật Ách là ngã cung, là nơi thể hiện chỗ thâm sâu, kín đáo nhất trong các ngã cung, nó có ý nghĩa cất giấu. Chính vì thế mà khi Lộc ở cung Tật Ách thì đương số đem mộng tưởng của cuộc đời mình giấu kín tận đáy lòng, đôi khi bôn ba bận rộn mà không biết mình đang tìm cái gì, thiếu đi mục tiêu rõ ràng. Ở tận sâu thẳm trong cái tiềm thức kia thì đương số có rất nhiều ý tưởng, chủ về trí tưởng tượng vô cùng phong phú nhưng nó đều sẽ không thể hiện cụ thể ra bên ngoài. Cụ thể là trong nội tâm sâu thẳm của mình thì đương số là người có tâm hồn lãng mạn nhưng vì phương thức biểu đạt ra bên ngoài bị cất giữ đi cho nên có thể cảm nhận được đương số là người không giỏi bộc lộ tình cảm, hành vi không đủ lãng mạn, những gì chất chứa trong lòng và cách biểu đạt ra bên ngoài có một khoảng cách khá xa, rất xa. Tương ứng nó thể hiện ra bên ngoài là đương số sẽ không chủ động bộc lộ và lợi dụng trong tình cảm, bề ngoài sẽ khá lạnh nhạt, trầm tĩnh, ít nói nhưng nếu có người tác động được nội tâm sâu thẳm của đương số thì có thể nói gì cũng nghe. Chuyển qua Hóa Quyền là nơi thể hiện công năng, năng lực hành động, cụ thể hóa kết quả của Hóa Lộc. Vì vậy, trong Mệnh bàn khi Hóa Quyền ở cung Mệnh là biểu thị đương số là người có tinh thần trách nhiệm và chịu được áp lực trong cuộc sống, mục đích cuối cùng là mong muốn có địa vị xã hội hoặc để có được sự đồng cảm và phụ họa của người khác. Mệnh cung là hình tượng của một người đối phó với xã hội, khi có Hóa Quyền thì đôi khi sẽ làm cho người xung quanh có cảm giác đương số là người võ đoán, ỷ thế áp chế người khác, khó thân cận. Tuy nhiên, vì Quyền có tính thực tiễn, tính thực hiện công việc cao, hành động mau lẹ sẽ khiến cho đương số có năng lực chiến đấu với cuộc sống khá tốt, chỉ hiềm nỗi là do không ở trạng thái tĩnh chính vì thế mà tâm cảnh của đương số khó tĩnh lặng, khó có tâm bình khí hòa, sẽ có lối suy nghĩ vội vàng, dễ bị kích động, trong lòng hay lo lắng không yên, lắm lúc hay nhận định một cách hấp tấp. Hóa Quyền ở cung Mệnh ít nhiều sẽ có kiểu suy nghĩ lợi kỷ, có lúc chỉ biết lo cho mình, bất kể người khác ra sao. Tuy ưu điểm là tích cực, quyết định và hành động mau lẹ đấy nhưng đương số cũng dễ mắc phải tính khá chủ quan, ý thức về bản thân rất mạnh, dễ lấy cái tôi làm trung tâm, không quan tâm hoặc xem thường lập trường của người khác, tự cho mình là đúng, ngoan cố và khó thông cảm với người khác. Can Quý năm sinh khiến cho Cự Môn Hóa Quyền do vậy đương số dễ biến điều tiếng thị phi thành lời nói có sức thuyết phục. Cự Quyền tạo ra lời nó có uy lực khá lớn, Cự Quyền sẽ có lối biểu hiện cái tôi dễ được người ta chấp nhận hơn, dễ làm cho người ta chấp nhận được đương số hơn bình thường. Họ có tính cách không chịu thua số phận, không chấp nhận hoàn cảnh bế tắc xung quanh cho nên sẽ tự đốc thúc bản thân rất mạnh. Lúc còn trẻ đương số đã biết hướng nỗ lực của đời mình, khoảng cách thành công và thất bại sẽ lớn hơn người bình thường, cuộc đời vì thế cũng sẽ lắm thăng trầm, bôn ba, biến động, sóng gió, nếm đủ thói đời nóng lạnh. Hóa Khoa ở cung Phu Thê thì chủ về đương số thường mong muốn che chở cho người phối ngẫu. Nó cũng chủ về người phối ngẫu có học vấn, học lực, khí chất và diện mạo bề ngoài của họ có lẽ cũng không tầm thường, rất chú trọng vào cách nói năng và danh dự của mình. Có thể nói người phối ngẫu luôn đề cao hình thái bên ngoài cũng như họ rất sợ bị người khác làm tổn thưởng lòng tự trọng của mình. Tuy nhiên, sau khi đương số nhờ hôn nhân thành lập, với sự tác động của Hóa Khoa cùng với sự tương trợ của người phối ngẫu do đó mà sẽ làm cho danh vọng, hình tượng, địa vị xã hội của cả hai người được nâng lên. Hóa Khoa ở cung Phu Thê thì cả hai sẽ trở thành quý nhân của nhau, trong quá trình yêu đương sẽ tìm hiểu nhau lâu dài chứ không phải ngày một ngày hai mà có thể đến với nhau nhanh được. Ở đây khi Hóa Khoa xung chiếu vào cung Quan Lộc sẽ làm cho người phối ngẫu cũng khá bàng quan và sẽ không can dự vào sự nghiệp của đương số. Ngoài ra, khi lấy sự ảnh hưởng của tam phương tứ chính thì Hóa Khoa ở cung Phu Thê sẽ làm cho đương số ra bên ngoài, đi xa sẽ có sự bình an, cũng chủ về tình huống đi công tác xa cũng khá tốt đẹp,có thể xử lý hữu hiệu và hoàn thành nhiệm vụ mình mong muốn. Hóa Kỵ ở cung Huynh Đệ là đương số sẽ có cảm giác mình sẽ mắc nợ anh chị em trong nhà, phần nhiều sẽ rất khó mà không ngó ngàng đến anh em, quan tâm họ cũng rất nhiều. Tuy nhiên, vì áp lực của Hóa Kỵ mà đương số sẽ có phương cách xử lý và biểu hiện ngôn từ không được hòa hợp khiến cho mối quan hệ không được êm ấm cho lắm. Hóa Kỵ ở cung Huynh Đệ cũng khiến cho anh chị em trong nhà cũng hay gây phiền phức cho đương số, thường vì họ mà đau đầu nhức óc; nhưng lúc họ gặp hoạn nạn thì cũng sẽ ra tay trợ giúp nhưng càng giúp thì càng rối. Khi lấy cung Huynh Đệ so sánh cung vị với các cung khác trong thiên bàn như cung Tài Bạch thì nó sẽ chủ về lúc điều độ tiền bạc, vốn liếng, của cải của đương số sẽ có vấn đề, nếu kinh doanh buôn bán thì rất cần phỉa dự phòng trường hợp điều chuyển vốn liếng mất linh hoạt, lúc có thì có rất nhiều, khi cần kíp thì lại chẳng thể xoay nổi ra 1 đồng. Hơn nữa, nếu việc tiền bạc mà còn liên quan tới anh chị em trong nhà thì thường thường sẽ có tổn thất vì họ. Trong đời đương số cũng dễ xảy ra một lần phá tài lớn, nếu nó chưa xảy ra ở giai đoạn 24-33 thì có thể qua lại ở giai đoạn 44-53 một lần nữa để thử thách tài năng và sự đương đầu với cuộc sống của đương số như thế nào, nếu là việc xảy ra là cho anh chị em trong nhà mượn tiền thì chuẩn bị tâm lý buông xả nhẹ nhàng là ổn. Cung Huynh Đệ cũng là cung trung gian của Mệnh và Phu Thê cho nên khi Hóa Kỵ đóng ở giữa thì trước hôn nhân đương số dễ xảy ra tình trạng hiểu lầm với bạn khác giới, còn sau khi hôn nhân thành lập giữa hai bên cũng không có sự tương đồng với nhau nhiều, giữa hai bên còn giữ sự tôn trọng với nhau thì ít cãi vả chứ nếu để xảy ra thì việc dùng ngôn từ chua cay hoặc khắc bạc mắng nhiếc nhau là không phải không có. Kỵ ở cung Huynh Đệ gây ra việc đứt quãng cho việc giao lưu tình cảm giữa đương số và người khác giới, người phối ngẫu, người yêu khá nhiều. Ngoài ra khi xem xét mệnh bàn thì cung Huynh Đệ cũng là cung vị khí số của cung Tật Ách cho nên thể chất của đương số cũng không được tốt chút nào, thường có sức đề kháng yếu với bệnh tật và lúc vào tuổi trung niên tất nhiên cần phải kiểm tra sức khỏe định kỳ, không thể xem thường bệnh tật của mình.
Tiếp tục phân tích sự phi hóa của cung Mệnh thì can Ất ở cung Mệnh khiến cho Thiên Cơ Hóa Lộc ở cung Quan, Thiên Lương Hóa Quyền ở cung Phúc Đức, Tử Vi Hóa Khoa ở cung Nô Bộc, Thái Âm Hóa Kỵ ở cung Phu Thê. Xem xét ý tượng bề mặt thì ở con đường sự nghiệp của đương số có nhiều điểm tốt, có thể gặp được nhiều cơ hội phấn phát trong việc tìm kiếm danh vọng của mình; hơn nữa việc quan hệ với bạn bè, đồng nghiệp, khách hàng khá ổn, họ đều là hạng người có năng lực tốt, có thể tương tác và trợ giúp hữu ích cho đương số. Điểm khúc mắc nhất chính là ở cung Phu Thê khiến cho nhiều việc rắc rối ẩn tình xảy ra ở đây. Đi sâu phân tích cát tượng thì Thiên Cơ Hóa Lộc ở cung Quan, chuyển Lộc đi thì can Đinh cung Quan khiến cho Cự Môn Hóa Kỵ phi ngược lại cung Mệnh, như vậy là chính hợp ý tượng đương số mong muốn thực sự rất nhiều có danh có phận trong cuộc đời, quyết không bao giờ bỏ cuộc và bằng mọi cách để đạt được như ý mình. Ý tượng đây là chuyển Lộc mà nó lại chuyển về cung Mệnh lại gặp Quyền năm sinh là thủ được Lộc do đó đương số có cơ hội thành công trong công việc, có thể nắm bắt cơ hội mà kiếm được tiền tài cho mình, tất nhiên là phải hoạt động cơ miệng rất nhiều mới kết nối được quý nhân mà gặt hái được thành công. Hơn nữa, Quan Lộc gặp Không Kiếp cùng Cơ Lộc thì bản thân phải phát huy hết sức sáng tạo của mình thì đúng cách, điều đó sẽ làm cho bản thân cảm thấy mình phù hợp với công việc và tự khắc năng lực sẽ càng ngày càng nâng cao hơn. Về hung tượng thì do Thái Âm Hóa Kỵ ở cung Thê là ý tượng tình cảm hôn nhân sẽ có nhiều rắc rối, không có sự êm đẹp như mình mong muốn. Cũng may là Thái Âm Hóa Kỵ ở cung Thê lại gặp Hóa Khoa năm sinh cho nên phần nào cũng hóa giải được nhiều sự kiện không tốt ở cung này. Bởi vì Thái Âm Hóa Kỵ cùng Khoa năm sinh xung cung Quan thì người phối ngẫu vừa giúp vừa không giúp cho công việc đương số; hoặc là đàn bà sẽ giúp cho đương số mà cũng có thể làm đương số gặp trắc trở. Tiếp tục hóa khí cung Thê thì can Quý cung Thê khiến cho Tham Lang Hóa Kỵ ở cung Huynh Đệ cho nên việc quan hệ nam nữ đương số có liên quan nhiều đến người bằng vai phải lứa, đồng nghiệp, anh em trong xã hội. Cung Huynh Đệ còn là cung Phụ Mẫu của cung Thê, là cung Điền Trạch của Tài Bạch cho nên đương số nên cẩn thận việc rắc rối giấy tờ trong hôn nhân, hơn nữa, khi Huynh Đệ đóng vai là kho tiền tài thì đương số nên biết tự bảo quản vật chất của mình song song với giấy tờ, bằng khoán, khế ước. Đó là bởi vì cung Huynh Đệ khi được chuyển Kỵ về lại gặp Kỵ năm sinh cho nên thành Song Kỵ xung lại cung Nô Bộc do đó khi giao dịch hợp đồng cần phải cẩn thận, hoặc khi làm giấy tờ gì đó nên tính toán cho kỹ, hạn chế mọi yếu tố ăn chơi, đào hoa mà phát sinh sai lầm thì không tốt chút nào đâu. Sau khi hóa khí tượng xong thì một sự thật hiển hiện lên rằng đương số là người sống có lý tưởng, tâm tình đặt nặng về công danh, sự nghiệp của cuộc đời mình. Song song với đó sẽ có những vấn đề nặng gánh về người khác giới, hôn nhân, có lẽ điều đó sẽ ảnh hưởng đến công việc của đương số khá nhiều.
Cung Huynh Đệ của đương số có chính tinh Tham Lang hãm địa tọa thủ cung Tý có cả Tuần lẫn Triệt án ngữ. Tham Lang thủ cung Huynh Đệ lại có Kỵ thì đương số dường như là mắc nợ anh em của mình khá nhiều. Tham Kỵ Đào là hiện tượng anh em tuy có tình cảm qua lại với nhau nhiều, đối xử cũng khá thân mật, ít tranh chấp, cãi vả nhưng hội thêm Thiên Không thì thành thử ai cũng có tâm tư riêng, có mà cũng như không vậy thôi. Thiên Không này trong cuộc Tuần Triệt thành thử là Tam Không, do đó đương số dù có nhiều anh em cũng là cô độc, bản thân mình có muốn giúp họ nhiều thì cũng sẽ dễ trở nên rắc rối, không như ý. Hơn nữa, với việc có nhiều anh em chồng chéo với nhau như vậy thì chỉ nên lấy tình cảm mà đối đãi, khi họ lâm nạn cũng nên tỏ rõ tấm thịnh tình của mình, giúp nhau qua lại cho phải phép chứ thường cũng không lưu tình với nhau nhiều lắm. Cũng cần khuyên nhủ anh em của đương số nên làm việc phúc đức nhiều để cải thiện nhân quả bởi vì Ân Quang, Thiên Quan, Tứ Đức hội tụ như là một chỉ dấu cuộc sống của họ cũng hướng về tâm linh, đời sống tinh thần, tôn giáo khá nhiều; có người còn có tâm tưởng tu hành nhưng là tu thần tiên, tìm kiếm huyễn ảnh chứ không phải thực do đó cần biết cân bằng lại thì tốt hơn. Nghĩa là cần phải sống có tâm, siêng năng hành thiện, giảm bớt nhiều thú vui không đáng có thì cuộc sống sẽ thanh tao hơn. Hóa khí cung Huynh Đệ thì can Giáp khiến cho Liêm Trinh Hóa Lộc ở cung Tử Tức, là cung vị Phu Thê của cung Huynh Đệ thì dự đoán rằng anh em có giao tình với ta đậm sâu, hai bên cũng chủ động quan tâm, tình cảm gắn bó khá thân mật. Ngoài ra, anh em đương số phát sinh tình cảm cũng sớm, họ bộc lộ tính năng dậy thì sớm nên sẽ phát sinh tình cảm với người khác giới sớm hơn bình thường; do Liêm Trinh cũng là sao đào hoa thứ mà đi Hóa Lộc lại hội Xương Khúc, Hỷ, Hồng Loan nên cũng dễ thành lập hôn nhân sớm, còn không thì quan hệ yêu đương ngay từ trẻ cũng khá là nở rộ. Chuyển Lộc đi thì can Nhâm cung Tử khiến cho Vũ Khúc Hóa Kỵ ở cung Phụ Mẫu, là cung vị Phúc Đức của Huynh Đệ như thế thì cha mẹ đương số đều có sự quan tâm đến cháu chắt của mình rất nhiều, họ sẽ cho tiền tài để bảo dưỡng, thương yêu chiều chuộng con cháu, tuy nhiên, họ cũng khá nghiêm khắc chứ không mềm mỏng, có khi lại trái tính cách dạy dỗ của đương số tương đối trong vấn đề này. Quay trở lại tính trạng Hóa Kỵ tại cung Huynh Đệ thì nhắc lại với đương số rằng, Hóa Kỵ năm sinh chính là sự mắc nợ,là một bài học, là trách nhiệm và nghĩa vụ của tạo hóa mang đến cho đương số ở cung đó, không thể không trả cho nên sẽ vướng víu ân tình với anh em, bằng hữu khá là nhiều. Kỵ năm sinh tọa Huynh Đệ còn biểu thị tuy giữa anh em trong nhà với nhau dù thương yêu nhau nhưng có sự cố chấp gì đó, khó thương lượng khai thông, điều này cũng khiến mẫu thân cũng thường ưu sầu phiền não. Hóa khí cung Huynh Đệ thì Thái Dương Hóa Kỵ ở cung Phúc Đức, là cung vị Điền Trạch của Huynh Đệ, đây là ý tượng việc chăm lo cho anh em trong nhà sẽ là trách nhiệm của đương số, phải vì anh em mà lao phiền, mệt mỏi. Tuy vậy thì anh em lại nặng tính hưởng thụ, sẵn sàng chi tiêu cho sở thích bản thân mà ít nghĩ đến ai, Kỵ năm sinh ở Huynh Đệ rồi Kỵ lại phi về cung Phúc Đức thì đây là oán duyên tiền kiếp chứ không phải là điềm lành cho nên đương số cẩn thận mà xử sự. Lại nói về sự nghiệp thông qua ý tượng này thì sự nghiệp và kinh tế tạo cho đương số rất nhiều áp lực phiền não mà đương số không thể không làm. Huynh Đệ cung là kho tiền tài, nơi cất giữ lưu lượng tiền mặt, chính vì thế đương số hay lâm vào tình trạng thiếu thốn tiền mặt để xoay sở, gặp Thiên Không, Tuần Triệt thì bức bối khó chịu, thấy hào nhoáng bên ngoài chứ nhiều khi tiền mặt không đủ chi. Kỵ phi về Phúc nữa thì sự nghiệp tất có sự cản trở, nhiều lúc mình tính toán kỹ thì trời lại không chiều lòng người mà đâm ra hư hỏng. Kỵ phi về Phúc lại xung về cung Tài cho nên tiền tài hẳn nhiên là bất tụ, có tiền cũng không thể lưu giữ lâu, dẫn đến kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng mà không biết làm sao cải thiện được, thể chất tinh thần vì thế mà suy nhược. Đối mặt với vấn đề này thì đương số cần biết quản lý tài chính cho thông mình, phân ra làm nhiều nguồn dự trữ, tâm lý phải kiên định và đôi lúc phải bất chấp; đồng thời cũng nên biết rèn luyện và vận động thân thể để giữ sức khỏe, không nên quá lao tâm lao lực chỉ biết đến tiền mà thôi. Chuyển Kỵ đi thì can Ất khiến cho Thái Âm Hóa Kỵ ở cung Thê như vậy thì đương số sẽ gặp ngoại cảnh. Thứ nhất là việc hôn nhân khá phức tạp, có thể anh em trong nhà sẽ gây khó khăn cho người phối ngẫu, hoặc chị em dâu rể không hợp với nhau, mỗi người nên tự lo lắng cho gia đình của mình thì hơn. Thứ hai là đương số nếu làm việc có thu nhập thấp thì sẽ nảy sinh sự lo lắng khá lớn cho người phối ngẫu của mình. Ngoài ra vì Huynh Đệ cung là tha cung, Kỵ phi về Phu Thê thì đương số về mặt sự nghiệp cần kiếm người khác giới trợ gúp cho mình nhiều, vì lúc đó Kỵ xung cung Quan, cần người phụ nữ kề vai sát cánh mới làm giảm đi áp lực trong công việc, có như thế mới vẹn toàn được.
Cung Phu Thê có chính tinh Thái Âm miếu địa tọa thủ cung Hợi. Với biểu tượng của Thái Âm ở cung Hợi là Nguyệt lãng thiên môn nhập miếu địa, lại hội Hóa Khoa thì nhiều phần đoan chắc rằng đương số có thể gặp được người phối ngẫu hiền lương thục đức, có học vấn, bằng cấp khá, tính trầm ổn, biết trước biết sau chứ không phải là người hồ đồ, thiển cận. Tuy cung Thê này Thái âm không hội được Xương Khúc nhưng cũng đủ nhận định rằng người phối ngẫu khá thông minh và có nhan sắc, dễ nhìn, thu hút được người khác phái. Hội Phượng Các, Khôi Việt, Khoa, Tấu Thư thì họ là người có phẩm chất thanh cao, lại tinh tế, khéo tính toán, ăn nói vừa lòng người xung quanh, có thể là con trưởng, con một trong gia đình. Hơn nữa, mẫu người này thường khá trọng sĩ diện, thích sạch sẽ, chăm chút cho hình dáng bên ngoài chứ không lôi thôi, luộm thuộm. Hơn nữa, khi Thái Âm ở cung Hợi thì thường thường cũng chủ về người phối ngẫu của đương số cũng khá giàu có hoặc gia sản của gia đình họ cũng có gì đó chứ không phải hạng nghèo hèn. Điểm tiêu cực ở cung này là do Không Kiếp, Khốc Hư chiếu về cho nên đôi khi những cái gì hoàn mỹ quá lại khiến đương số đam ra lo ngại, người phối ngẫu tuy đạt được nhiều tiêu chuẩn đánh giá của đương số nhưng họ cũng khá bốc đồng, đôi khi không kiểm soát được tính cách của mình làm cho đương số thêm lo lắng, âu sầu. Hạn của cung Phu Thê có Thái Âm độc tọa của nam thì đối chiếu trên thiên bàn này là giai đoạn từ 44-53 vào cung Tài đại vận vô chính diệu gặp Thái Dương Thiên Lương chiếu là dễ xảy ra nhiều biến chuyển nhất. Ở đây cũng cần nói rằng do cung Thê có Thái Tuế đóng cho nên người phối ngẫu rất chính trực, thích sự minh bạch do đó mà bất cứ điều gì mờ ám cũng khiến họ không nể nang, tuy vậy thì do Hóa Khoa trọng sĩ diện mà họ có thể ngó lơ hoặc làm ra vẻ như không quan tâm chút gì cả. Xem hóa khí cung Thê thì can Quý khiến cho Phá Quân Hóa Lộc nhập cung Tật Ách, là cung vị Tử Tức của cung Phu Thê, như vậy thì đời sống tình dục của đương số khá phong phú, bản thân đương số là người cũng có ham muốn mạnh mẽ, thận hoạt động nhiều vì nhu cầu đòi hỏi khá cao do còn có Lộc năm sinh hội ở cung Tật Ách này; do đó xét ở phương diện nhẹ nhàng hơn thì đương số cũng rất dễ hữu duyên với bạn bè khác giới, họ cũng luôn quan tâm gần gũi đương số, nếu tiếp xúc lâu ắt phát sinh tình cảm và còn cả quan hệ tính dục nữa. Còn xét về người phối ngẫu thì họ dễ có tính thụ động nên cũng ít can thiệp tới hành động và sự tự do của đương số, ngoài ra họ còn dễ phát tướng sau hôn nhân, tính tình có thể sẽ chậm hơn, lười biếng hơn dù rằng vẫn có thể chăm sóc chồng con đầy đủ. Chuyển Lộc đi thì can Canh cung Tật làm cho Thiên Đồng Hóa Kỵ ở cung Mệnh, như vậy toàn bộ ý tượng phát sinh đào hoa bên ngoài dù có xảy ra hay không thì do đương số một tay tạo nên cả, chính đương số mong muốn nó và nó sẽ xuất hiện chứ không phải ai tự nguyện. Bố cục này phát sinh tình cảm ngoài hôn nhân hay ngoại tình là xuất phát từ ý niệm của đương số chứ không ai khác; còn một điểm khác hơn là đương số trong việc kinh doanh buôn bán thì đối tác cũng nhiều phần là người khác giới hoặc gặp những người phụ nữ có tính cách mạnh mẽ như đàn ông. Tiếp tục hóa khí của hung tượng thì can Quý khiến cho Tham Lang Hóa Kỵ nhập cung Huynh Đệ, là cung vị Phụ Mẫu của Phu Thê, tại đây hội với Kỵ năm sinh làm thành Song Kỵ xung cung Nô Bộc, là cung vị Tật Ách của Phu Thê. Như vậy thì người phối ngẫu có quan hệ không tốt với anh em trong nhà của đương số là điều đoan chắc, hai bên nặng chấp niệm về nhau, cũng khá tính toán với nhau chứ không từ bi hỷ xả gì cả đâu. Họ cũng không thích những mối quan hệ bên ngoài của đương số, người phối ngẫu ưa sống yên tĩnh, khép kíp, sau kết hôn thì số lượng bạn bè dần dần ít đi. Ngoài ý tượng ấy ra thì người phối ngẫu cũng vì công việc bận rộn mà ít dành thời gian cho hôn nhân, sinh hoạt phòng the giảm dần mà sinh ra lạnh nhạt với nhau. Ở đây dường như là họ biết đương số quan hệ bên ngoài như thế nào nhưng họ làm lơ, giả tảng và không thèm ngó ngàng gì đến để không tạo ra xung đột (đặc tính của Hóa Khoa) chứ không phải là đương số có thể giấu họ muốn làm gì thì làm được. Can Giáp của cung Huynh Đệ chuyển Kỵ đi thì Thái Dương sẽ Hóa Kỵ ở cung Phúc Đức, là cung vị Quan Lộc của Phu Thê xung cung Tài Bạch, là cung vị Phu Thê của Phu Thê do đó đến hạn 44-53 thì dễ phát sinh tình hình thay đổi. Đây là hiện tượng nhân duyên mắc nợ tiền kiếp, trả hết thì nên xa rời, bằng không cũng sẽ có giới tiểu nhân gây ra phiền nhiễu, đương số nên cẩn thận cân nhắc và lựa chọn đường đi nước bước của mình cho đúng đắn, đừng để ảnh hưởng đến công việc, tiền tài và cả con cái của mình vì hôn nhân bền vững là nền tảng cho sự nghiệp và nhiều thứ, nếu đổ vỡ thì cũng ảnh hưởng khá nhiều đến vận trình.
Cung Tử Tức của đương số có chính tinh Liêm Trinh miếu địa và Thiên Phủ vượng địa tọa thủ cung Tuất. Cung này có lẽ khá tốt đối với đương số. Bởi vì Liêm Trinh rất ưa cung Tử Tức, chủ về tình cảm giữa hai đời rất sâu đậm, có mâu thuẫn với nhau thì cũng có thể ngồi lại mà bàn bạc với nhau mà giải quyết được. Lại thêm có Thiên Phủ cùng tọa hội được Xương Khúc, Thanh Long cho nên con cái cũng có hiếu và đa tài. Cơ bản là hai sao Liêm Phủ đều là sao lành khi đóng ở cung Tử Tức cho nên nếu có điều kiện tài chính thì nên đầu tư con đường học hành của chúng cho đàng hoàng thì sau này tương lai sẽ rất sáng. Hơn nữa, cần chăm chút cho chúng học ngoại ngữ cho thật giỏi thì sau này sẽ có lúc đắc dụng cho cuộc sống của chúng. Về số lượng con cái trong thư tịch cổ thì với thời hiện đại này có lẽ không thể áp dụng chính xác được, nhưng cung Tử Tức này còn có thể biểu hiện cho mối quan hệ với hạng tiểu bối, người làm cho mình và mức độ tiêu xài của đương số. Như vậy thì về mặt hình tượng thì bậc tiểu bối, người làm cho đương số cũng khá đắc dụng, làm việc đâu ra đó và tư cách cũng đàng hoàng. Tuy nhiên, về mặt lợi ích, tiền công thì nên đàng hoàng, trả công đầy đủ cho họ, tránh gây xích mích bởi vì họ dễ để tâm và không tốt cho mình. Hóa khí xem cát hung thì can Nhâm khiến cho Thiên Lương Hóa Lộc ở cung Phúc Đức, là cung vị Nô Bộc của cung Tử Tức. Đối với ý tượng này thì con cái sẽ đem đến cảm xúc tinh thần vui vẻ cho đương số, đây là mối thiện duyên của tiền kiếp tới báo ân tình cho đương số nên con cái đa phần sẽ hiếu thuận, ngoan ngoãn, chúng cũng ứng xử hài hòa cho nên đương số cũng không phải lo lắng nhiều lắm. Tử Tức phi Lộc về Phúc chiếu cung Tài cho nên khi đương số sinh con cái ra thì thu nhập của gia đình cũng sẽ tăng lên, con cái như lộc trời đem đến may mắn cho đương số vậy. Mở rộng ý tượng thì cuộc sống về già của đương số cũng sẽ có chất lượng tốt, hưởng lộc trời cho và con cái cũng phụng dưỡng đầy đủ nên thật là an lạc. Ngoài ra, vì là cung Nô Bộc của cung Tử Tức được phi Lộc về cho nên con cái chơi với bạn bè khá rộng rãi, cũng có khá nhiều bạn có học hành đàng hoàng tương giao với nhau. Chuyển Lộc đi thì can Ất khiến cho Thái Âm Hóa Kỵ ở cung Phu Thê, là cung vị Phụ Mẫu của cung Tử Tức; chính vì lẽ này mà chúng đa phần thích sống với mẹ nhiều hơn là với đương số, nhưng về mặt tiền tài thì chúng lại cần đương số. Tựu chung, với ý tượng này thì con cái học hành khá tốt, có lễ phép, tính cách thân thiện, cần thúc đẩy tinh thần học tập của chúng. Đồng thời chúng ta cũng nên suy xét hung tượng thì có can Nhâm khiến cho Vũ Khúc Hóa Kỵ ở cung Phụ Mẫu thì sợi dây duyên nghiệp của cha mẹ đương số với con cái đương số khá kém, hoặc là trong cuộc đời học hành của con cái đương số thường gặp phải thầy cô giáo có năng lực kém nhưng lại hám tiền, thích vật chất. Chuyển tiếp Kỵ đi thì can Giáp khiến cho Thái Dương Hóa Kỵ ở cung Phúc Đức, chính điều này lại làm cho đương số dễ gặp vấn đề rắc rối với con trai của mình, có thể đương số tạo áp lực lên chúng quá nhiều và mong muốn chúng sẽ đáp ứng được nguyện vọng của mình nhưng không được mà đâm ra buồn phiền lo lắng. Hơn nữa, đương số cũng nên chú ý rèn luyện cho con cái vì chúng dễ mải chơi mà quên đi ý chí phấn đấu, chú trọng vào hưởng thụ, mê đắm thói quen xấu hoặc hoang phí cho sở thích bản thân mà đâm ra làm cha mẹ vô cùng lo lắng. Phóng tác ý tượng ra thì đương số trong hợp tác công việc nên chú trọng về việc xử lý giấy tờ, không nên chủ quan vì dễ phát sinh sự cố bất ngờ không trở tay kịp.
Cung Tài Bạch của đương số không có chính tinh tọa thủ cung Dậu. Với bố cục Song Hao ở cung Tài thì ý tượng củng cố thêm cho các phần trước rằng đương số là người không giữ được tiền của mình một cách vững bền, cần có người trợ lý tư vấn về tài chính hoặc phải chuyển hóa vào phương thức bất động sản hoặc tài khoản ngân hàng thì tốt hơn. Ngay cả việc tinh hệ ở đối cung về làm nòng cốt để suy luận thì Thái Dương và Thiên Lương cùng Khôi Việt chỉ chủ về danh tiếng là phần nhiều, có danh tiếng thì mới có tiền tài đi theo sau. Bởi vì Thái Dương chủ về quan lộc, không phải chủ về tài bạch. Dương Lương thích làm việc bố thí hành thiện cho nên trong đời đối với bạn hữu, người thân thích đương số thường hay ra tay giúp đỡ, mang tiền ra làm việc công ích, lấy tính hướng thượng của mình mà đùm bọc kẻ khác, do vậy việc tích công đức sâu dày dù cho không thành đại phú thì cũng có thể trở thành tiểu phú nhờ danh tiếng của mình cũng được. Bởi vì khi suy xét cung Tài này chỉ là mượn tinh hệ chứ không phải là chính thức, hơn nữa Mệnh Thân gặp Cự Đồng hãm ngộ Tuần Triệt cho nên đương số không đủ điều kiện để đại phát như giới đại gia nhưng nếu làm việc thiện nhiều thì bước vào giới trung lưu, mức độ khá giả thì cũng có khả năng. Hơn nữa, Dương Lương hội Khôi Việt thì rất nên xây dựng danh tiếng của mình càng rộng rãi thì tiền tài mới có thể theo sau được. Cung Tài này còn hội Không Kiếp, Khôi Việt mà Thái Dương chủ đầu, hành hỏa nên đi về việc hoạt động trong công nghệ thông tin, phục vụ cộng đồng, phát huy sức sáng tạo tiềm ẩn trong con người của mình thì khá là phù hợp. Nếu xác định trước con đường của mình đi thì đương số phải tìm cách xây dựng vững chắc địa vị xã hội của mình hiện có, nếu làm trong giới kinh doanh làm ăn thì phải tìm các nhãn hiệu, thương phẩm nổi tiếng, có yếu tố nước ngoài rồi hợp tác làm đại lý, hoặc nếu tự mình xây dựng thì phải tạo thương hiệu cho nổi tiếng thì lúc đó không ngại gì mà tiền tài không tới. Cách cục Dương Lương chiếu Tài hay mượn về cung Tài này phải dựa vào quan hệ nhân tế để kiếm tiền, tất là phải qua một đoạn đường vòng, thông qua trung gian chứ không hoàn toàn một bước lên mây được. Ở đây, đương số nên chú ý rằng cung Đại vận 44-53t âm khi rơi vào đất của cung Dậu này gặp Dương Lương ngộ Không Kiếp cùng Song Hao thì dễ bị thất bại nặng, sự nghiệp có thể bước vào chỗ phù phiếm, không có thực chất, hào nhoáng bề ngoài mà thiếu hụt thực chất bên trong. Tuy vậy, nếu đương số chỉ là người ẩn mình, phát huy năng lực sáng tạo, không đương đầu lộ diện thì cũng có thể đỡ bị xung sát. Tiếp tục chúng ta hóa khí cung Tài thì can Tân khiến cho Cự Môn Hóa Lộc ở cung Mệnh, điều này cho thấy luận về phương thức kiếm tiền thì cuộc đời đương số sẽ có một ngày sẽ đạt được sự sung túc, tiền bạc sẽ đem lại niềm vui cho đương số, tiền tài cũng là phúc phận của tiền kiếm đương số, có duyên với tiền tài và nó sẽ tự tìm đến. Tuy nhiên, như đã nói thì dù phi về Mệnh thì vẫn phải chịu tác động trong sự tương quan tam phương tứ chính, nghĩa là đương số nếu không có kế hoạch quản lý mà chi tiêu quá phóng khoáng, tự thỏa mãn mà không làm việc thiện nhiều thì sẽ mất đi ý chí và hoài bão, không có sự đề phòng với nguy cơ sẽ xảy ra thì lúc đương đầu với sóng gió rất dễ bị đắm thuyền. Tiếp tục chuyển Lộc thì can Ất cung Mệnh khiến cho Thái Âm Hóa Kỵ ở cung Phu Thê, là cung vị Phúc Đức của cung Tài cho nên về mặt tiền bạc đương số cũng không keo kiệt với người khác giới, với người phối ngẫu của mình. Lộc chuyển về cung Phu Thê chiếu cung Quan cho nên công việc cũng sẽ mang đến tiền tài nhiều và khá thuận lợi cho đương số. Đương số cũng nên nhớ rằng, người phối ngẫu cũng là nguồn tài chính ẩn của mình, có hôn nhân vững bền thì tài lộc mới thuận lợi, khi nó gặp trục trặc thì tất nhiên sẽ nảy sinh rắc rối về công việc, truy ngược lại thì cũng hao hụt về tiền bạc. Đánh giá thêm hung tượng thì can Tân khiến cho Văn Xương Hóa Kỵ nhập cung Điền Trạch, là cung vị Tật Ách của cung Tài Bạch, điều này hàm nghĩa rằng đương số nên cân bằng tiền chi xuất ra đầu tư và tiền chi xuất cho gia đình nên hợp lý, kẻo bị mất thăng bằng thì nảy sinh nhiều yếu tố không tốt. Nó còn ẩn ý rằng đôi lúc đương số chi tiền cho gia đình còn khá tính toán so đo. Ngoài ra về mặt ý nghĩa rộng hơn thì Điền Trạch là nơi cất giữ tiền tài thông qua bất động sản, nhà đất cho nên tiền kiếm được đương số sẽ dùng vào đầu tư mua bất động sản cũng khá nhiều, hoặc tiền kiếm ra không cách nào để dành được, không tích lũy được mà phải chuyển hóa vào phương thức cất giữ bằng bất động sản thì tốt hơn. Chuyển Kỵ đi thì can Bính cung Điền khiến cho Liêm Trinh Hóa Kỵ vào cung Tử Tức, xung ngược lại cung Điền Trạch cho nên khi hợp tác với người khác thì cần thận trọng, Văn Xương hóa khí là giấy tờ, cũng là một sao đào hoa, Liêm Trinh cũng hóa khí làm sao đào hoa cho nên khi phối hợp hóa tượng thì đừng sa ngã vào những việc mang tính đào hoa khi làm ăn vì dễ bị người ta đưa mình vào tròng. Hơn nữa, đương số chỉ nên tự tay mình mua bất động sản và bán đi chứ không nên chung chạ với người khác mà đầu tư bất động sản, dễ chịu nhiều áp lực, đối kháng lại cung Điền thì sinh hoạt gia đìn sẽ có nhiều áp lực. Ngoài ra, trong cuộc sống đương số cũng nên dạy con cái có tính tiết kiệm, không buông lỏng quản lý vì chúng cũng sẽ thường có tính tiêu xài tiền, nếu giáo dục không đúng thì cũng dễ nảy sinh tranh cãi giữa vợ chồng với nhau. Đây là toàn bộ ý tượng ở cung Tài phát sinh ra các hiện tượng, đương số cần cân nhắc.
Cung Tật Ách có sao chính tinh Phá Quân hãm địa tọa thủ cung Thân. Phá Quân bản tính ngũ hành thuộc dương thủy, hóa làm sao hao cho nên phần nhiều chủ về các bệnh có tính tiêu hao. Nếu thể chất từ nhỏ thì thường là các bệnh liên quan đến máu mủ, còn khi trưởng thành thì các bệnh liên quan phần nhiều đến tiểu đường, hệ nội tiết mất điều hòa không hấp thu chất dinh dưỡng. Tuy nhiên, do cung Tật Ách này hội Hồng Loan, Đào Hoa, lại có Phá Quân Hóa Lộc cho nên cũng dễ dẫn đến chứng thận hư, nghĩa là có thể cường độ hoạt động tính dục của đương số nhiều mà ảnh hưởng đến tạng thận, tiếp theo đó là cơ năng sinh thực khí và cơ năng tính dục. Chứng bệnh thận này có thể dẫn tới chứng suy giảm thị lực hoặc do đương số ngồi làm việc nhiều quá mà dễ sinh chứng bệnh trĩ với sự hội lý của Cô Thần, Bệnh Phù, Phục Binh, Đẩu Quân. Ngoài ra khi Phá Quân đối mặt với Vũ Tướng lại có Kiếp Sát, Thiên Hình, Lưu Hà, Thiên Sứ thì đương số cũng nên chú ý bệnh răng miệng của mình, đến niên hạn nhập cung mà có lưu Đà La thì dễ xảy ra đau răng, nhức răng và đi nhổ răng. Xem thêm tính chất phi hóa của cung thì can Canh khiến cho Thái Dương Hóa Lộc ở cung Phúc Đức, mà Tật Ách chủ về sức khỏe, tiềm thức, còn Phúc Đức chủ về phúc báo, cảm xúc, như vậy thì khi Lộc phi về Phúc thì chủ về tư duy tinh thần có khuynh hướng hưởng thụ, được thừa hưởng phúc báo của tổ tiên. Xét về thân thể thì đương số dường như vận động không nhiều, dễ phát phì, thích sự hưởng thụ tiêu dao, nhiều ham mê sở thích nhưng thường không bền lâu, cơ thể có bệnh thì thường hết rồi có lại, các bệnh thuộc về kinh niên, nhất là Thái Dương Hóa Lộc thì làm việc hưng phú nhiều quá mà bị mỏi mắt, nhức đầu, thần kinh tổn thương. Lộc phi về Phúc thì sau này về già nếu có bệnh nặng thì thường chết nhanh chứ không kéo dài đau đớn quá lâu. Chuyển Lộc đi thì can Ất khiến cho Thái Âm Hóa Kỵ ở cung Thê, là cung vị Điền Trạch của Tật Ách, điều này báo hiệu đương số dễ bị tăng cân, không dễ gì mà giảm béo được, ăn ít hay cho dù chỉ uống nước cũng có cảm giác tăng cân do mình không sắp xếp thời gian vận động hợp lý. Đây là ý tượng nhẹ nhàng, đối với hung tượng thì can Canh khiến cho Thiên Đồng Hóa Kỵ ở cung Mệnh, xung cung Thiên Di cho nên một đời đương số phải lao tâm lao lực. Đây là đương số tự mắc nợ chính mình, bản thân chắc sẽ có thề nguyện tâm ước với chính bản thân phải làm gì đó mà cho dù dốc hết cả sức lực ra cũng không hề ca thán. Nó biểu thị rằng đương số phải là người luôn bận rộn, sự việc luôn tìm tới để bản thân buộc phải không được nhàn rỗi; mà nếu nhàn rỗi nhiều quá thì tự khắc bệnh tật sẽ tìm đến ngay. Đương số nên biết sắp xếp trước kế hoạch nghỉ hưu cho cuộc đời mình, kể cả nghỉ hưu cũng phải kiếm gì đó để vận động đầu óc, chân tay chứ không thể hưởng thụ nhàn rỗi bởi vì càng nhàn thì càng dễ sinh bệnh, nếu phát sinh bệnh tật thì kéo dài mà khó thuyên giảm một sớm một chiều. Đương số chính vì thế mà nên cần biết cân bằng giữa làm việc, nghỉ ngơi, hoạt động thể chất để có sức khỏe ổn định thì mới làm việc lâu dài được. Hơn nữa, do công việc sẽ có lúc làm nhanh làm gấp, liên tục cho nên dễ ảnh hưởng đến não bộ, bản tính lại khá khép kín cho nên sẽ có phần cô độc, chỉ biết chú tâm vào công việc không thì các mặt khác cũng có thể sẽ nảy sinh rắc rối. Đương số nên nhớ hãy giữ cơ thể ở mức quân bình, không nên để phát béo nhiều quá, càng béo thì càng dễ sinh bệnh và càng dễ dẫn đến cửa tử đối với mệnh bàn lá số này.
Cung Thiên Di của đương số không có sao chính tinh tọa thủ cung Mùi. Với cung Di không có chính tinh nhưng vì có Quyền Kình ở Mệnh chiếu cho nên đương số cũng là người hoạt động nhiều, dễ bị xung kích cạnh tranh cho nên phải vận động không ít, không thể nói là nhàn tản được.Hơn nữa, với việc cung Di vô chính diệu nhưng có Thái Dương và Thái Âm là hai sao động cùng hội chiếu thì ắt hẳn một đời không nhàn được, phải đi lại liên tục cũng như là có hoạt động, có danh tiếng bên ngoài thì mới có tiền tài cho mình. Xem hóa khí của cung thì can Kỷ cung Di khiến Vũ Khúc Hóa Lộc ở cung Phụ Mẫu, điều này cho ta biết rằng đương số là người thông minh, học nhanh hiểu rộng, có tính thực tế đối với tiền tài, cái gì mình học là để mình kiếm ra tiền chứ không phải học để chơi, hơn nữa, Di cung phi Lộc tới Phụ Mẫu là khéo léo trong quan hệ với bậc trưởng bối, cấp trên, với cơ quan công quyền nhà nước, không để mất lòng ai cả. Hơn nữa, Lộc chủ tình cảm, chủ tiền tài, Vũ Khúc Hóa Lộc sẽ đem đến sự tương trợ, nâng đỡ, chỗ dựa cho đương số từ những thành phần như vậy, nếu khéo léo ôn hòa thì sẽ có lợi rất nhiều cho việc tiếp cận quý nhân giúp cho việc giao lưu bên ngoài xã hội của mình có được những mối quan hệ tốt giúp ích cho công việc. Chuyển Lộc đi thì can Giáp cung Phụ Mẫu khiến cho Thái Dương Hóa Kỵ ở cung Phúc Đức, như vậy thì đương số là được trời cho phúc lộc, được quả báo tốt từ tiền kiếp nên có được tiền tài như ý vì đưa Lộc về Phúc sẽ chiếu cung Tài nên ra ngoài giao tế xã hội tốt sẽ có tiền tài như mình mong muốn. Đây cũng là dự báo của người có thiện căn tu hành từ kiếp trước nên có phước báo tốt cho kiếp này, cũng là người có căn cơ cao nên cũng sẽ hướng mình đến con đường tâm linh huyền bí. Nhược điểm của cách cục này là đương số hay thích được người ta khen ngợi, nịnh nọt, xem trọng danh dự, đôi lúc xem mình là mặt trời để ban phát ánh sáng cho xung quanh chứ không thích luồn cúi ai cả. Đánh giá tiếp hung tượng phát sinh thì can Kỷ khiến cho Văn Khúc Hóa Kỵ nhập cung Tử Tức, điều này đem đến ý nghĩa rằng đương số dễ bị động, sa vào tình cảm khi giáo dục con cái, không có phương pháp giáo dục tương thích đối với con trẻ hoặc trong một lúc nào đó để lại hình tượng không tốt nơi chúng; Văn Khúc cũng là sao đào hoa cho nên hóa khí này dễ rơi vào tượng đào hoa nam nữ của đương số. Liên kết với Di thì cung Tử Tức cũng là cung vị biểu đạt sự hợp tác, giao tế của đương số bên ngoài xã hội thì việc Văn Khúc Hóa Kỵ nó nhắc nhở đương số rằng không nên tiên phong trong việc hợp tác kinh doanh, nghĩa là không nên đứng mũi chịu sào mà cần mượn lực của người khác thì dễ dàng hơn. Do Kỵ này xung cung Điền cho nên tài khố phải vất vả lắm mới tích tụ nhiều được, dễ bị tiêu hao vào việc tình cảm. Chuyển Kỵ đi để nối dài ý tượng thì can Nhâm cung Tử Tức khiến cho Vũ Khúc lại Hóa Kỵ ở cung Phụ Mẫu, thành ra 2 tượng Kỵ Lộc đều ở cung Phụ Mẫu. Như thế thì ý nghĩa cát tượng ở trên cũng có khi bị tác động không tốt, nghĩa là đương số nếu biết tiếp thu tốt sự quan hệ giao tế với bậc trưởng bối thì tốt, còn khi mình không tạo hình tượng tốt trong mắt họ thì tiền tài của mình kém đi. Vũ Khúc là sao tài tinh, Phụ Mẫu là tha cung và là khế ước, trung gia; do vậy trong một số trường hợp đương số sẽ bị vướng víu với cơ quan nhà nước về giấy tờ, cần phải bỏ tiền ra bôi trơn nếu không thì khó hoạt động suôn sẻ bên ngoài. Điều này còn ngầm bảo rằng đương số lúc ở bên ngoài còn cần phải biết tự nâng cao năng lực suy đoán của mình, phản ứng phải nhanh nhạy hơn, không nên gặp hiện tượng trước mắt đã vội hồ đồ suy đoán dễ gặp sai lầm. Hơn nữa, khi xuất ngoại cần phòng bị sự bất ngờ, nếu đi xa ký kết hợp đồng rất nên chú ý về việc chuẩn bị kỹ càng giấy tờ, văn thư, khế ước, con dấu…để bản thân mình không bị bất lợi, rơi vào thế khó thì tiền tài sẽ giảm dần theo. Nói chung, đối với cung Di thì cung vị Phụ Mẫu là cơ quan công quyền, là bậc trưởng bối, là giấy tờ hợp đồng; đây chính là điểm xử lý mấu chốt mà bản thân đương số cần cân nhắc kỹ càng.
Cung Nô Bộc của đương số có sao chính tinh Tử Vi miếu địa tọa thủ cung Ngọ. Tử Vi là một sao vua trong hệ thống Tử Vi Đẩu Số chính vì thế mà khi nó đóng ở cung Nô Bộc thì thành ra không hợp vì nó phản ánh khuyết điểm rằng thuộc hạ quá mạnh mà mình trở nên yếu thế, như vậy thì không dễ gì mà điều khiển được họ. Cũng may cho đương số là Tử Vi ở bố cục này không hội sát tinh nào mạnh quá ngoại trừ Thiên Hình và ám tinh Hóa Kỵ chiếu, còn Thiên Không thì có lẽ không có lực nhiều. Tuy vậy thì Hình Kỵ, thêm Phục Binh chiếu, còn Tử Vi ở đây vào thế “tại dã cô quân” cho nên đương số phần nhiều sẽ có người dưới quyền có thực tài nhưng họ cũng khá ương ngạnh, thích lấn lướt người trên; giáp Không Kiếp thì cũng có hơi hướng bất nghĩa nhưng vị trí giáp này yếu nên xu thế không tác động mạnh. Một điểm đáng lưu ý nhất ở cung Nô Bộc này đó là tình thế của Tử Vi đối mặt với Tham Lang Hóa Kỵ, lại còn có Đào Hoa, hội cả Thiên Hỷ, Văn Khúc thì dứt khoách không được xảy ra tình cảm với thuộc cấp khác giới. Tham Lang là đào hoa tinh, mà còn hội khá nhiều sao đào hoa tinh khác, Tham Lang lại Hóa Kỵ cho nên một khi xảy ra duyên cớ tình cảm với cấp dưới thì dễ bị liên lụy, hơn nữa cách cục Tham Lang Hóa Kỵ đối cung Nô cũng chủ về thuộc hạ hoặc bằng hữu sau này lại trở thành đối thủ cạnh tranh rất mạnh với mình. Xem hóa khí của cung Nô Bộc cụ thể như thế nào thì can Mậu khiến cho Tham Lang Hóa Lộc ngay đối cung là cung Huynh Đệ, nhưng tính chất này lại gặp Hóa Kỵ năm sinh ở đây, như vậy thì ở tình trạng bình thường không xung đột lợi ích thì đương số sẽ luôn thân thiết, gần gũi, hòa đồng vui vẻ với bạn bè, thuộc cấp như anh em, huynh đệ, có thể còn rủ họ chén thù chén tạc nhiều nữa là khác. Lộc từ Nô phi sang Huynh Đệ là tài khố vị thành ra đương số cũng nhờ bạn bè mà có thêm mối quan hệ làm ăn, tài lộc đến từ bốn phương chứ không bó buộc ở một phương diện nào cả, hơn nữa cũng thúc đẩy cho đương số có thể tự chủ kinh doanh, làm về dịch du lịch, khách sạn, nhà hàng, dịch vụ ăn uống ẩm thực thì cũng rất thu hút được khách hàng từ nhiều nơi. Chuyển Lộc đi thì can Giáp khiến cho Thái Dương Hóa Kỵ ở cung Phúc thì đương số có nhiều nhân duyên gặp được tri kỷ tốt trong đời, bản thân cũng thích ăn uống vui chơi, giao tế, ăn nhậu với họ; sau này khi nhắm mắt xuôi tay thì cũng được rất nhiều bằng hữu, thuộc cấp tới đưa tiễn, phúng viếng. Đánh giá về hung tượng thì can Mậu ở cung Nô Bộc làm cho Thiên Cơ Hóa Kỵ ở cung Quan Lộc, điều này có thể đánh giá rằng đương số trong công việc hoặc sự nghiệp sẽ có tiểu nhân can thiệp khá nhiều, Nô phi Kỵ về Quan thì thường là xuất phát từ bạn bè, người dưới quyền, họ sẽ gây trở ngại cho sự phát triển của đương số. Ngoài ra ý tượng còn là công việc dễ gặp cạnh tranh khốc liệt cùng bạn hàng hoặc người cộng tác chung thường gây trở ngại cho quyết định của đương số; nếu công ty có cổ đông thì cũng dễ gặp đối tượng lạm dụng mà tư lợi cá nhân. Tiếp tục chuyển Kỵ đi thì can Đinh khiến cho Cự Môn Hóa Kỵ ở cung Mệnh. Ý tượng này đến đây trở nên khá rắc rối. Bởi vì khi quy về Mệnh thì sẽ gặp cảm giác rằng đương số mắc nợ bạn hữu của mình, tiểu nhân phiền nhiều tăng cấp độ lên mà trong đó thường là những người ăn nói như mật ngọt vào tai vì vậy mà đương số cần thận trọng không để họ mê hoặc mình. Mở rộng thì đương số còn dễ kết giao với những người cố chấp, hay đi gây thị phi, đâm bị thóc chọc bị gạp, xui xẻo, khiến cho công việc mình trở nên bị phiền não. Nếu công việc liên quan nhiều đến trí tuệ và bản quyền thì càng nên tránh xa những hạng người như vậy vì chính mình bị tổn hại chứ không phải ai khác. Bởi vì một khi kết giao nhầm bằng hữu thì đương số là người trọng tình trọng nghĩa ắt là sẽ không có hành động mạnh mẽ, thành ra tự mình bị tổn thương mà thôi. Tính chất phi hóa này còn cho thấy đương số dễ gặp bất lợi trong cạnh tranh cho nên cần sáng nước bước mà tìm ra phương kế hữu hiệu đối phó khi tình huống không được thuận lợi cho mình. Phải thật sự bình tĩnh vạch ra các phương án chứ đừng tỏ ra ủ rũ, mất hết sinh khí thì cuối cùng sẽ thất bại, thua thiệt với họ mà thôi.
Cung Quan Lộc của đương số có sao chính tinh Thiên Cơ vượng địa tọa thủ cung Tị. Ngoài Thái Âm và Thái Dương thì Thiên Cơ cũng chính là một sao động trong Tử Vi Đẩu Số. Chính vì vậy mà khi nó thủ ở cung sự nghiệp thì tính chất cơ bản của nó hẳn nhiên là một đời sự nghiệp sẽ có nhiều biến đổi, không giữ được một nghề nào cố định mà có thể suốt đời phải chuyển đổi nghề nghiệp nhiều lần. Do đó, phương thức hữu hiệu nhất để đương số không lãng hoài tuổi trẻ là cần ra sức phấn đấu, gắng sức tìm ra mục tiêu chính để làm cho nó ổn định, uốn nắn đi vào một con đường duy nhất do mình vạch ra thì sẽ giảm bớt những thay đổi không cần thiết ngõ hầu đến tuổi trung niên hay vãn niên có được thành tựu như ý thì cũng là may mắn rồi. Sự biến động này còn đến từ Không Kiếp, nó tiêu biểu cho sự thành bại bất thường, dân gian thường có câu lên voi xuống chó, biểu thị cho vận thế có thể đột ngột đạt được thành tựu rực rỡ mà cũng có thể thất bại một cách chóng vánh không kìm hãm được. Do vậy chỉ có thể khuyên đương số trong công việc không nên ham đầu tư mạo hiểm, đầu cơ bởi vì Thiên Cơ gặp Không Kiếp rất không nên lao vào những việc rủi ro cao bởi vì dễ vì một phút bốc đồng mà tán gia bại sản không thương tiếc. Nhưng nếu nói không làm gì thì cũng không đúng. Chính là bởi vì Thiên Cơ là trí tuệ, Không Kiếp là sức sáng tạo bạt ngàn, Hóa Khoa chiếu là sự minh triết chính vì thế khi phối hợp với cả Mệnh Tài Quan thì đương số nên dùng khả năng trí tuệ sáng tạo của mình mà tập trung vào nó để làm cho sự nghiệp vững bền chứ đừng ham mê theo đầu tư vào sự vật hiện tượng có tính chất bất thường, may rủi sẽ không có kết cục tốt. Đây chỉ là phối ý tượng từ tam phương tứ chính quy về cung Quan, chúng ta tìm hiểu tiếp tính chất phi hóa của cung sẽ rõ hơn nó như thế nào. Can Đinh của cung Quan Lộc khiến cho Thái Âm Hóa Lộc ở cung Thê, là cung vị Thiên Di của cung Quan Lộc, đây là tượng Lộc xuất, như vậy thì nếu đương số tìm được người phối ngẫu biết trợ giúp cho công việc của đương số thì sự nghiệp sẽ có bước tiến mạnh mẽ; hơn nữa bố cục này còn cho thấy đương số có duyên trong công việc với người khác giới, làm ăn hay gặp khách hàng là nữ giới. Đối với sự tình thì Thái Âm là tài tinh, lại Hóa Lộc chiếu ngược cung Quan là biểu thị đương số có sự nghiệp đạt được thu nhập cao, sau khi kết hôn sự nghiệp sẽ dần dần đi lên do còn có Hóa Khoa năm sinh ở đây. Nó còn hàm nghĩa răng đương số thích thể hiện năng lực của mình ra bên ngoài, đẩy mạnh công tác, quảng cáo, tiếp thị, giao tế nhiều thì sự nghiệp sẽ phát triển hơn. Một lần nữa thì việc hóa khí của Hóa Lộc ở cung Quan lại cho thấy đương số khá thích hợp với việc cho thuê nhà cửa, kinh doanh nhà hàng, khách sạn, du lịch, thẩm mỹ… Nhưng Thê cung này có Lộc Khoa, lại là cung vị Thiên Di của Quan Lộc do vậy trong công việc cũng rất dễ phát sinh sự tình nam nữ với người khác, dễ có ngoại hôn cao. Tiếp tục chuyển Lộc đi thì can Quý khiến Tham Lang Hóa Kỵ ở cung Huynh Đệ, thì công việc của đương số sau khi phát triển ở mức độ tốt thì sẽ làm tăng tài khố vị lên nhiều, đôi lúc chỉ muốn giữ, muốn bồi đắp thêm chứ không muốn nhả ra tiền tài của mình. Điều này cũng là điều tốt chứ không phải xấu bởi vì nó sẽ làm tăng động lực cho đương số phấn đấu trong sự nghiệp để tích lũy tiền tài càng nhiều càng tốt. Đánh giá qua hung tượng thì can Đinh khiến Cự Môn Hóa Kỵ ở cung Mệnh thì ý tượng này dường như đã được phản ánh man mác qua việc hóa khí trong nhiều cung ở trên. Có nghĩa là khi Kỵ nhập Mệnh từ Quan thì đương số sẽ là người lao tâm, vì sự nghiệp mà lo lắng khôn nguôi, cảm giác là một nghĩa vụ và trách nhiệm mình sinh ra không thể không trả. Đương số vì sự nghiệp của bản thân mà chịu mọi khổ cực, không ngừng xông pha để phấn đấu, chịu phiền muộn ôm vào thân cũng không nề hà. Hơn nữa, cho dù trong thời gian rảnh rỗi cũng khó mà nghỉ ngơi thích đáng, khi có công việc thì thường muốn làm cho xong mới thôi, không bỏ dở giữa chừng được. Cách cục này như đã nói ở trên thì đương số sẽ bận rộn tới cuối đời không lúc nào thư giãn được. Bởi vì Kỵ nhập Mệnh từ Quan thì đương số không an tâm mà giao việc cho người khác, thường muốn tự mình làm cho xong, lâu dần phát sinh việc thiếu tin tưởng hoặc nghi kỵ cấp dưới, một khi công việc có nhiều thách thức khó khăn ắt sẽ ảnh hưởng nhiều đến tinh thần và sức khỏe của chính mình. Chính vì lẽ đó mà đương số nên biết cân bằng và nghỉ ngơi, mạnh dạn học cách phân quyền trong công việc, tin tưởng người khác để họ có thể hoàn thành bổn phận của mình, điều đó sẽ làm mình san sẻ được trách nhiệm; không nên ôm khư khư chỉ tự mình giải quyết sẽ rất là mệt mỏi.
Cung Điền Trạch của đương số có sao chính tinh Thất Sát hãm địa tọa thủ cung Thìn. Điền Trạch là cung thu tàng, nó là nơi cất giữ tài sản cho đương số song song với cung Huynh Đệ. Nếu cung Huynh Đệ là tài khố vị chỉ về mặt tiền bạc lưu trữ như tiền gửi ngân hàng, tiền mặt thì Điền Trạch cung là nơi chuyển hóa về mặt bất động sản, nhà đất. Đối với hiện tượng Thất Sát ở cung Điền này là độc tọa, không đứng cùng chính tinh nào khác thì dù miếu địa cũng không hẳn là hay bởi vì Thìn Tuất là nơi Thiên La Địa Võng, mà Thất Sát ngoại trừ đóng ở hai cung Dần Thân thì mua thêm nhà cửa đất đai là ổn, còn lại đều không tốt cả. Chính vì vậy, vể mặt ý tượng của cung Điền Trạch thì đương số không nên kiêm thêm nghề mua bán bất động sản bởi vì nó không có lợi cho mình lắm. Ngoài ra, với tính nghĩa của Thất Sát ở Điền thì đa phần của cải phải do tự mình phấn đấu mà nên chứ nhiều khi không thừa hưởng được bao nhiêu từ gia sản của tổ tiên cả. Thất Sát tuy ở cung Thìn thổ gia tăng sức lực cho nó nhưng đồng cung lại có Linh Tinh hỏa làm rối loạn tính chất của nó, tuy mức độ ảnh hưởng là không lớn nhưng tất sẽ làm tính quyết liệt của Thất Sát có phần bị hư hỏng. Cung Điền đồng thời còn có cả Hóa Lộc và Hóa Kỵ vây chiếu cho nên tất nhiên hai bên xâu xé tất tâm thế khó yên về mặt này. Hơn nữa, Điền cung lại có Bệnh Phù, Tử Phù cho nên môi trường sống của đương số không tốt, dễ bị ảnh hưởng bởi yếu tố phong thủy nhà cửa; khi đi làm về mà ở trong nhà thì khí trường nhà cửa không làm đương số cảm thấy thoải mái được, lâu ngày phát sinh bệnh tật cũng là chuyện bình thường. Điều này cũng đơn giản, chỉ cần có sự bố trí phong thủy lại một cách hợp lý, hóa giải khí trường xấu thì tình hình sẽ có những chuyển biến đáng kể. Tiếp tục chúng ta hóa khí cung Điền để xem nó tốt xấu như thế nào thì can Bính của cung Điền khiến cho Thiên Đồng Hóa Lộc ở cung Mệnh, điều này dự báo đương số được hưởng phúc nhiều từ âm phần; tài sản, của cải, cuộc sống vật chất đem lại cho đương số cảm giác vui vẻ. Hơn thế nữa thì khi cuộc sống vật chất dư dả thì đời sống tinh thần của đương số từ đó mà cũng tự nâng lên, tinh thần sẽ an lạc và thoải mái nhàn hạ qua ngày. Đương số nếu như có bất động sản cho thuê thì cũng đem lại lợi lộc, còn như kinh doanh nhà hàng, khách sạn, mở kinh doanh riêng thì từng bước công việc sẽ đi đúng quỹ đạo gặt hái ra tiền và khách hàng sẽ đến với mình nhiều. Cách cục này thực sự rất có lợi cho đương số khi nó còn gặp cả Quyền năm sinh thủ ở Mệnh khiến cho tài ít bị thất thoát nhiều. Chuyển tiếp Lộc đi thì can Ất cung Mệnh khiến cho Thái Âm Hóa Kỵ ở cung Phu Thê thì nếu là kết hôn xong đương số dễ có thêm điền sản, có thể cùng người phối ngẫu đứng chung tên bất động sản. Trong nhà giữa người phối ngẫu với cha mẹ cũng ít xung đột gì to lớn, mẹ chồng nàng dâu cũng không hẳn có sự động chạm gì mạnh mẽ quá làm tổn thương cả hai. Đánh giá thêm về hung tượng thì can Bính khiến cho Liêm Trinh Hóa Kỵ đối xung với cung Điền, đây là tượng không hay bởi vì sau này khi con cái lớn lên nó sẽ phải gánh vác trách nhiệm gia đình khá lớn, đương số phải cần có kế hoạch cho cuộc sống về già của mình một cách cụ thể, có thể lựa chọn mua bảo hiểm trọn gói một lần hoặc tự mình tích lũy thông qua nhiều hình thức khác như gửi ngân hàng, mua đất đai…Nói về con cái thì đương số cần phải đầu tư giáo dục cho chúng thật hết lòng, bởi vì không có sự đầu tư sớm thì sau này chúng dễ đi chệch hướng rất lớn. Chuyển Kỵ đi thì can Nhâm khiến cho Vũ Khúc Hóa Kỵ ở cung Phụ Mẫu thì gia đình của đương số sẽ không thích hợp với nhà của cha mẹ vợ. Điền Trạch chuyển Kỵ về Phụ Mẫu thông qua Tử Tức cũng là ý tượng rắc rối về hộ tịch, có thể có nhiều địa chỉ hoặc giấy tờ không rõ ràng, không trùng nơi ở với giấy tờ… Phụ Mẫu còn là biểu thị chính quyền, văn thư, giấy tờ; khi có tượng Kỵ phi đến thì trong hợp tác tất cả hợp đồng văn thư đương số tuyệt đối không nên ký ngay mà cần nhờ người có chuyên môn thẩm định rồi mới đặt bút ký thì sẽ an toàn hơn. Ngoài ra, đương số cũng sẽ có nợ ngân hàng tương dài hạn, cần cố gắng sắp xếp nhà cửa ổn thỏa, không ăn xài tiêu phí quá lớn mức mình kiếm được thì khả dĩ cũng có thể sống tốt, không sao cả.
Cung Phúc Đức của đương số có sao chính tinh Thái Dương và Thiên Lương vượng địa tọa thủ cung Mão. Cung Phúc Đức với tinh hệ Dương Lương thì xét về bản thân đương số trước thì đây là mẫu người có lòng tự tôn khá mạnh, xem trọng danh dự, có khuynh hướng cầu toàn và chau chuốt về hình ảnh bên ngoài của mình cũng như những gì mình muốn làm. Cụ thể là bản thân sẽ không muốn làm qua loa, đại khái mà phải chuẩn chỉ từng li từng tí mới vừa lòng. Tinh hệ Thiên Lương chính là ấm tinh, nó ở cung Phúc Đức thì người đó thường hay có thái độ hưởng thụ an lạc, chú trọng đời sống tinh thần là nhiều, tự có niềm vui, không cần dựa vào vật chất cũng không cần phải theo những chuyện bỗ bã của xã hội mới là vui. Người Dương Lương tọa Phúc thường tạo cho người ta cảm giác của một danh sĩ có phong thái cao vời, một danh nhân tài tử theo đúng nghĩa của thời xưa. Hóa Khoa, Phượng Các, Thiên Khôi đi theo Dương Lương càng tô đậm thêm ý nghĩa này. Tuy vậy vì cung Mão mang tính mộc mà Thái Dương tính hỏa, lại ngộ Hỏa Tinh cùng Song Hao thì dù ít dù nhiều đương số cũng dễ bị chao đảo, nghĩa là vẫn tiềm ẩn sự nóng vội bốc đồng, mất kiểm soát. Bình thường là đạo mạo danh sĩ, có phong thái uy nghi nhưng khi gặp chuyện thì không tránh khỏi có lúc hồ đồ, hấp tấp, quyết định không kỹ càng. Chỉ khi dừng lại suy nghĩ cặn kẽ thì bản thân mới kịp nhận ra mình nghĩ gì, làm gì và chỉnh sửa lại mà thôi. Do cung Phúc là nguyên thần của cung Tài lại gặp Song Hao, tính Hỏa bùng lên hết thì tắt, mặt trời đốt nhanh thì thành tro tàn cho nên thể hiện tính lý cụ thể là bản thân không nên vì người khác mà cố ra mặt, bản thân cũng không nên ra mặt ở chính diện, chỉ nên ở hậu trường mà vạch ra kế sách thì tốt hơn, tránh đi những thị phi, ồn áo, oán trách từ người khác, tệ hơn nữa là dễ gặp các trường hợp lấy oán báo ân. Hóa khi cung Phúc thì can Ất cung Phúc khiến cho Thiên Cơ Hóa Lộc ở cung Quan Lộc. Điều này có ý nghĩa rằng đương số trong công việc thường có tinh thần tốt, sẽ gặp được công việc phù hợp chí hướng của mình, bản thân cũng nhờ có âm đức mà giúp cho công việc trở nên tốt hơn dù rằng bản cung có Không Kiếp tại Quan thì cũng phải ba chìm bảy nổi chứ không phải một sớm một chiều mà thỏa mãn được ngay. Tiếp tục chuyển Lộc đi thì can Đinh khiến cho Thái Âm Hóa Kỵ ở cung Phu Thê, như vậy Lộc chuyển về Phu Thê thì đương số dù sao cũng có được sự hưởng ứng báo đáp của người phối ngẫu trong đời, đây chính là thiện duyên của đương số gieo trong tiền kiếp mà hiện tiền này phải trải nghiệm. Tất nhiên ý tượng thể hiện ra là Lộc Khoa quấn nhau khiến cho tình cảm với người phối ngẫu, người khác giới trở nên nồng hậu, tâm đầu ý hợp. Đương số cũng thường được tiếp xúc với nhiều người khác giới có bằng cấp, có gia sản, học vị, lại còn có nhan sắc; được họ trợ giúp cho mình đắc tài lộc không ít. Đây là tượng tốt, không dễ gì có được. Chuyển qua hung tượng thì can Ất khiến cho Thái Âm Hóa Kỵ ở cung Phu Thê. Quả là tình thế rắc rối khi Thê cung là điểm chốt vừa là điềm cát, lại dễ hóa hung tượng, nghĩa là đương số thường chăm chú để ý người phối ngẫu, đôi khi dễ bộc phát ngã mạn thâm sân si tùy mức nặng nhẹ đối với đối tượng này nhưng lại cũng dễ vì họ mà nguyện trả giá, cống hiến hy sinh. Trong tình cảm với người khác giới đương số thường khá cố chấp, lo lắng cho họ những cũng dễ vì tình cảm xao động mà ảnh hưởng không ít đến chính sự nghiệp của mình. Chuyển Kỵ đi để mở rộng ý tượng thì can Quý khiến cho Tham Lang Hóa Kỵ ở cung Huynh Đệ như vậy thì đương số sẽ tự nguyện vì thành tựu mà hy sinh, chịu sự gian khổ, vất vả cũng không nề hà. Hơn nữa, cung Huynh Đệ là cung vị trung gian, cung vị chúng sinh do vậy đương số thường phải làm kiêm chức, làm kiêm nhiều việc, không được ngơi nghỉ chút nào. Điềm báo này hiển hiện ra thì khuyên đương số đừng quá tham công tiếc việc, hãy nên chăm lo sức khỏe thân thể mình cho kỹ càng, không nên đắm mình vào công việc quá mà tỏ ra bàng quan với các thứ khác; cuộc sống là muôn màu muôn vẻ, nhiều cái tươi đẹp, chớ đánh mất nó. Tiếp tục mở rộng ý tượng về âm phần thì lấy cung Phúc Đức làm định vị, thì cung Điền của Phúc bị Kỵ xung nhưng lại được Quang Quý chiếu, lại có Thiếu Âm, Thiếu Dương, Long Đức, Thanh Long cho nên ngôi mộ tổ ở nhà cũng đang phát phúc, ông bà tổ tiên đang phù hộ con cháu. Điều nên cân nhắc là do Thiên Hình, Thiên Không, Hóa Kỵ, Cô Thần, Quả Tú cùng hội thành ra dễ có vấn đề sạt lở, có nước chảy vào và mộ tổ ít được chăm sóc kỹ lưỡng, ít người nhang khói. Chính vì lẽ đó mà đương số nên dành thời gian, nếu có dịp thì nên tìm hiểu về mồ mả tổ tiên và tiến hành chăm sóc, sẽ được hưởng phúc báo không hề nhỏ chút nào đâu.
Cung Phụ Mẫu của đương số có sao chính tinh Vũ Khúc vượng địa và Thiên Tướng miếu địa tọa thủ cung Dần. Trong một mệnh bàn thì cặp Vũ Tướng này không ưa cung Phụ Mẫu. Chính là bởi vì khi đóng ở cung Phụ Mẫu thường tạo ra tình huống có quan hệ bất hòa với cha mẹ, khó được cha mẹ dìu dắt chiếu cố tận tình. Hơn nữa, khi nó hội cặp Cô Quả, Phục Binh, Thiên Hình thì không có lợi cho tình cảm của cha mẹ, dễ bị lẻ loi cô độc, xảy ra tình trạng rạn vỡ hôn nhân giữa cha và mẹ là rất nhiều. Vũ Khúc là sao cô độc, tính cương, gặp Thiên Hình ắt sẽ xung sát nhau thành thử cha mẹ có đời sống tình cảm không thuận lợi với nhau, thành ra không thể ở bên nhau lâu dài được. Cũng may là do ở vào cung Dần cho nên Vũ Khúc và Thiên Tướng cũng đạt trạng thái vượng và miếu địa cho nên cũng hạn chế được bớt phần nào tính xấu của nó. Vũ Tướng mà gặp Thiên Hình tất lúc ấu niên sẽ phải xa lìa cha hoặc mẹ, hoàn cảnh mà xảy ra như vậy thì sau này mới có cơ hội để trùng phùng được. Hơn nữa lúc mệnh bàn có cung Tật Ách khi xoay cung thì nó là cung Thiên Di của Phụ Mẫu, với tính chất như vậy thì chủ về cha đương số rất có duyên với người khác phái bên ngoài, phong thái phóng túng của ông ta cũng khá là thu hút được người khác. Tuy nhiên, việc quan hệ đào hoa bên ngoài cũng có nhiều lâm li bi đát, khó có thể một lời mà nói hết. Xem tiếp việc phi hóa cát hung thì can Giáp khiến cho Liêm Trinh Hóa Lộc ở cung Tử Tức biểu thị cha mẹ đương số có mối quan hệ hài hòa với đời cháu, là con cái của con cái mình. Nhưng cung Tử Tức là cung vị Tài Bạch của Phụ Mẫu do vậy mà họ cũng thường đem tiền bạc ra bên ngoài tiêu xài, Liêm Trinh hóa khí làm sao đào hoa thành thử cha đương số cũng tiêu tốn khá nhiều vào khoản này. Chuyển Lộc đi thì can Nhâm khiến cho Vũ Khúc Hóa Kỵ ngược trở lại cung Phụ Mẫu, như vậy đây là tượng Lộc xuất, cha mẹ đương số tự phô trương tình cảm ra bên ngoài và họ cũng dễ bị thu hút bởi đào hoa, tình cảm ngoài xã hội. Lại thêm có Phục Binh tiềm ẩn thì khó tránh khỏi có người thứ ba xen vào khi cha mẹ đương số còn sống chung. Chuyển qua hung tượng thì can Giáp khiến cho Thái Dương Hóa Kỵ ở cung Phúc Đức, như thế là tình huống bắt đầu từ cha của đương số là chính, đây chính là do vận khí, sợi dây duyên nghiệp từ tiền kiếp đã hết và đứt chứ không phải do mâu thuẫn gì lớn cả. Ở khía cạnh khác thì đương số cũng không thể gần gũi cha của mình, khó khai thông tư tưởng với nhau. Mở rộng hơn thì đương số nên cẩn trọng giao dịch tiền bạc với đàn ông lớn tuổi hơn nhiều, dễ gặp rủi ro cao, hao tán tài khí của mình mà còn tổn hao tinh thần, khiến mình suy nghĩ lo âu buồn phiền. Đối với việc giao dịch hay sử dụng văn thư khế ước, hợp đồng cũng vậy, hay phát sinh tình huống nghiêm trọng không minh bạch. Chuyển Kỵ đi thì cung Thê lại có Thái Âm Hóa Kỵ thì lại có ý tượng cha mẹ đương số có phần lo lắng, buồn phiền nhiều về hôn nhân của đương số, có khi họ sẽ không quan tâm, nhưng nếu mà đã quan tâm thì tất có sự phản đối, gây phiền nhiễu cho quyết định của đương số. Cung Phụ Mẫu cũng là hành vi, quy phạm đạo đức xã hội cho nên khi chuyển vào cung Thê có Thái Âm Hóa Kỵ thì đương số dễ gặp vấn đề không rõ ràng trong hôn nhân và tình cảm với người khác giới của mình, điều này tự bản thân đương số cân nhắc kỹ lưỡng bởi vì bản cung Thê cũng có Hóa Khoa cho nên ắt là sẽ có phương thức xử lý thỏa đáng không làm phiền hà đến ai cả. Cha mẹ đương số sức khỏe của không được tốt, thường dễ bị chứng bệnh về tiêu hóa, đầy hơi, ngoài ra còn dễ bị chứng tiền đình, đau đầu kinh niên, huyết áp cao, do vậy cần nên hoạt động thể dục thể thao thường xuyên sẽ có sức khỏe tốt hơn.
Đại vận này của đương số nhập hạn cung Tử Tức. Vào vận hạn Tử Tức thì quan trọng nhất là vấn đề giao tế và kiểm soát tiền chi tiêu của đương số. Dễ thấy rằng trên bề nổi thì xuất hiện Liêm Phủ đạt mức vượng miếu, hội họp cùng Xương Khúc, Thiên Hỷ, Thanh Long, Hồng Loan, Thiên Diêu cho nên đương số có thể có nhiều đào hoa, giao lưu với người khác giới trong giai đoạn này. Lấy cung Tử này lập cực thì chính cung Phu Thê lại có Hóa Lộc năm sinh do vậy mà sự phát sinh tình cảm khác giới là không hề nhỏ. Cung Tài Bạch đại vận lại có Tử Vi, tuy khong phải là sao tài lộc nhưng nó là chỉ dấu cho đương số có tài quán xuyến về mặt tài chính của mình, cung Quan Lộc lại có Vũ Tướng hội Phục Binh, Tướng Quân, Thiên Hình, Tướng Quân, Quốc Ấn cho nên về mặt công danh, sự nghiệp có sự thực chất, nắm quyền hành và xông pha chứ không phải là hư ảo, ngồi không. Cung Phụ Mẫu đại vận lại có Thái Âm Hóa Khoa cho nên về mặt hợp đồng, giấy tờ có nhiều quý nhân giúp đỡ. Cung Điền đại vận lại Cự Môn Hóa Quyền cho nên trong nhà, trong gia đình đương số có quyền lực khá lớn, có thể một lời nói ra mọi người phải nghe theo, có sức lực áp đảo không nhỏ. Nhưng đó là ý tượng tĩnh trên bề mặt; tiếp tục hóa khí ta sẽ nghiệm thêm các vấn đề khác. Can Nhâm của cung Tử Tức khiến cho Thiên Lương Hóa Lộc ở cung Phúc Đức, là cung vị Nô Bộc đại vận; Tử Vi Hóa Quyền ở cung Nô Bộc, là cung vị Tài Bạch đại vận; Tả Phụ Hóa Khoa ở cung Tài Bạch, là cung vị Huynh Đệ đại vận, Vũ Khúc Hóa Kỵ ở cung Phụ Mẫu, là cung vị Quan Lộc. Trên tính chất phi hóa xuất phát từ cung Tử Tức thì đại vận này Lộc nhập ngã cung thiên bàn mà Kỵ lại ở tha cung thiên bàn xung ngã cung thiên bàn là hiện tượng không an toàn. Bởi vì nó sẽ có ý tượng đương số có thu hoạch tiền tài, vật chất nhưng sẽ tổn hại ở mặt khác. Đầu tiên, Lộc về cung Phúc Đức là chiếu cung Tài Bạch thiên bàn thì đương số sẽ có mức thu nhập tăng lên trong giai đoạn này, công việc sẽ giúp đương số có doanh thu đáng kể; trong phạm vi quản lý người dưới quyền mình cũng có năng lực hơn hẳn, có sự thể hiện tốt, gặp được phụ tá đắc lực; còn về mặt xoay sở tài chính thêm vốn thì cũng được nhiều quý nhân giúp đỡ cho mình, tiền bạc được trang trải đều đều chứ không dồn một lần; chỉ vướng mắc là do mình làm việc quá nhiều, quá chú trọng vào công việc mà đại vận này sức khỏe cực kỳ bị ảnh hưởng, tốn tiền thuốc men không ít. Đây là tầng nghĩa thứ hai khi phân tích đại vận. Bây giờ phân tích cát tượng thì Thiên Lương Hóa Lộc ở cung Phúc Đức, là cung vị Nô Bộc đại vận là đương số có thể phát sinh tình cảm mang tính thanh cao với người bằng vai phải lứa, bạn bè đồng hao, người làm cùng mình. Chuyển Lộc đi thì can Ất cung Phúc khiến Thái Âm Hóa Kỵ ở cung Phu Thê, là cung vị Phụ Mẫu đại vận, như thế mối lương duyên này cấu thành quan hệ nam nữ dài lâu, có thể tiến tới xa hơn mức bình thường. ràng buộc nhau về giấy tờ và có thể ra mắt cả hai bên là đằng khác. Song song với đó thì Thái Âm Hóa Kỵ này chỉ là chuyển Lộc, mà Lộc này lại chiếu về cung Quan Lộc thiên bàn cho nên người này sẽ tương trợ cho đương số trong công, nguyên mẫu cung Thê này là Thái Âm Hóa Khoa nên cô ta cũng biết điều. Ở mặt khác thì người phối ngẫu giai đoạn này cũng không tỏ ra xung đột với đương số, về mặt giao hảo nói chung là tốt, đối đãi với nhau có sự thân mật. Đánh giá tiếp về hung tượng thì Vũ Khúc Hóa Kỵ ở cung Phụ Mẫu, là cung vị Quan Lộc đại vận; như vậy về công việc vì đam mê quá mà đương số bị hao tổn về sức khỏe không ít. Kỵ này xung cung Tật Ách thiên bàn, bắt Hóa Lộc thành Kỵ, tạo thành Song Kỵ đối nhau. Chuyển Kỵ thì can Giáp khiến cho Thái Dương Hóa Kỵ ở cung Phúc Đức thiên bàn, là cung vị Nô Bộc đại vận. Ý tượng này là chuyển từ cung Phụ Mẫu qua cung Phúc, đối xung cung Tài thiên bàn, do vậy nó có ý nghĩa rằng đương số nên cần thận về mặt giấy tờ, khế ước, hợp đồng cần có sự chuẩn bị chu đáo, kỹ càng, không nên hấp tấp mà bị sai lầm. Thái Dương bị Hóa Kỵ là tượng mặt trời bị mây che, cung Phúc Đức thiên bàn lại là Nô Bộc đại vận cho nên đương số cần thận trọng trong việc hợp tác, giao dịch tiền bạc với bạn bè hoặc hoàn toàn tin tưởng người dưới quyền, có thể họ sẽ qua mặt mình mà làm mình bị thất thoát tiền bạc. Phương diện rộng hơn thì Vũ Kỵ chuyển thành Dương Kỵ thì đương số nên thận trọng thêm việc ứng xử với cơ quan công quyền, không nên làm điều gì trái pháp luật thì mới an toàn được. Mặt nghĩa khác nữa là cha của đương số gặp vận này thì cũng không ổn, dễ gặp phải nhiều trục trặc về sức khỏe cũng như tài chính của bản thân ông ta, có thể phát sinh chứng tiểu đường cần khám sớm.
Những năm cần chú ý trong đại vận đó là: năm 2024 – 42t âm, hôn nhân có nhiều trục trặc, công danh gặp vấn đề, sức khỏe không tốt, quan hệ bạn bè cũng không tốt; 2025 – 43t âm, mọi việc dễ bị trì trệ do bản thân nghi ngờ, tiến lùi khó đoán và phải chờ đợi thời cơ hành động, không được nóng vội; các năm 2022,2023 thì khá tốt; các năm 2020, 2021 thì có phân tích bên dưới.
Đại vận của đương số nhập hạn cung Tài Bạch. Ở phương diện đại vận nhập cung Tài Bạch thì như đã nói man mác ở bên trên, cung này vô chính diệu không có chính tinh tọa thủ, tuy nói là có Dương Lương chiếu, hội được Khôi Việt, lại có Tả Hữu thì về mặt ngữ nghĩa đương số có thể được trợ giúp tiền bạc, vật chất trong giai đoạn này nhưng còn phải để ý đến yếu tố Không Kiếp, Song Hao, Kình Dương, Hỏa Tinh cũng hội họp là vấn đề rất đáng ngại. Nó dễ xảy ra tình trạng bạo phát mà cũng bạo tàn về tiền bạc, hơn nữa, bản thân tài chính, nguồn của cải của mình dễ có đột biến theo chiều hướng rất khó lường. Giai đoạn này lại ứng với hào 4 dương quẻ Hỏa Phong Đỉnh, lời hào có nói: “Chân vạc gãy, đánh đổ thức ăn của nhà công hầu, mà bị hình phạt nặng, xấu”; lại còn giảng thêm rằng: “Làm lớn mà dùng người sai lầm, để quốc gia suy sụp”, suy xét cho cá nhân thì là: có tài không đức, dùng người bậy nên bị liên lụy to, bỏ chính theo tà, cậy thế mà làm xằng nên vận thế khi tán khi tụ. Hơn nữa, cung đại vận lại rơi vào đất Tang Tuế Điếu thì cũng không phải là hay chút nào, cần đề phòng là hơn. Suy xét thêm phi tinh hóa tượng thì can Tân của đại vận khiến cho Cự Môn Hóa Lộc ở cung Mệnh, là cung vị Quan Lộc đại vận, Thái Dương Hóa Quyền ở cung Phúc Đức, là cung vị Thiên Di đại vận, Văn Khúc Hóa Khoa ở cung Tử Tức, là cung vị Phụ Mẫu đại vận, Văn Xương Hóa Kỵ ở cung Điền Trạch, là cung vị Tật Ách đại vận. Tương quan thế đứng của tứ hóa phi tinh đại vận thì Lộc ở ngã cung mà Kỵ cũng ở ngã cung, như thế thì tất là tốt; nhưng tại sao lại có những hạn chế tiêu cực ở giai đoạn này? Trước tiên thì Lộc nhập về Mệnh (Quan đại vận) với Quyền năm sinh tọa thủ thì đương số kiếm tiền cũng sẽ được như ý, nhưng cái gì dễ dàng cũng dễ sinh cái rủi ro, khuyết điểm của nó là tiền vào dễ dàng thì tiêu pha cũng chẳng hề thương xót, đương số vì chi tiêu không lo nghĩ mà không có kế hoạch quản lý, tự mãn, không tích cực, ỷ lại, tùy tiện và không tự trang bị cho mình nguy cơ về ý thức đối mặt với khó khăn, khúc ngoặc cho nên ứng hợp với chính cung Tài Bạch (cung Mệnh đại vận) gặp Song Hao là tiền chi xuất ra kha khá. Tuy nhiên, về mặt công việc thì giai đoạn này phát huy tinh thần sáng tạo cao độ, có nhiều ý tưởng, sáng kiến trong công việc, cần khéo nắm bắt thì sẽ có thành tựu đáng kể. Chuyển Lộc đi thì cung Mệnh có can Ất khiến cho Thái Âm Hóa Kỵ ở cung Thê, là cung vị Phúc Đức đại vận, ở đây hội Hóa Khoa năm sinh cho nên thành ra Khoa Lộc đồng cung chiếu lại cung Quan Lộc thiên bàn, là cung vị Tài Bạch đại vận do đó đương số nếu biết khôn khéo bảo toàn chi tiêu cho mình và gia đình thì cũng đạt được gia sản khá ở giai đoạn này. Hơn nữa, do Khoa đại vận ở cung Tử Tức, là cung vị Phụ Mẫu nên việc giao thiệp với bậc trưởng bối, cơ quan công quyền giai đoạn này đạt mức độ thăng hoa và được nhiều quý nhân giúp đỡ cho nên phải tận dụng triệt để thì mới được. Đây đều là những ý tượng tốt của đương số trong giai đoạn này, thế thì điềm hung tượng có ý nghĩa như thế nào? Do Văn Xương Hóa Kỵ nằm ở Điền Trạch, là cung vị Tật Ách đại vận, như thế về mặt ngữ nghĩa đời sống của đương số trong giai đoạn này ngoài công việc bắt buộc phải giao tế ra thì nội tâm sống khá là khép kín, tự nhiêu sẽ ít giao tiếp xã hội đi nếu thấy không cần thiết. Điều này có lẽ cũng là vì Văn Xương Hóa Kỵ là tinh thần bị ảnh hưởng, cung Điền cũng là cung Tật đại vận có Bệnh Phù tọa cung, cung Điền – Tật này lại nằm ở Thiên La Địa Võng cho nên đương số ít giao du xã hội, ít muốn ra ngoài; có lẽ là vì sức khỏe của mình không tốt hoặc bản thân hướng theo con đường cô tu, tự mình chiêm nghiệm nhân thế mà chán ngán nhân thế. Chuyển Kỵ đi thì can Bính khiến cho Liêm Trinh Hóa Kỵ ở cung Tử Tức, là cung vị Phụ Mẫu đại vận đối xung với cung Điền Trạch ban đầu. Như vậy thì ý tượng này không thể xem thường nữa rồi. Bởi vì Phụ Mẫu là cơ quan công quyền, Liêm Trinh hóa khí tù tinh, lại hội Thiên Hình; xung lại cung Điền là phải xa nhà, nhưng ở thế La Võng thì luẩn quẩn. Phối tượng lại thì đương số cần cẩn thận với công việc của mình, các mối quan hệ giao tế, không nên chủ quan trong các việc giấy tờ, hợp đồng, khế ước với nhà nước dễ bị liên lụy, nhẹ nhàng thì bị hạch sách, khiển trách, cảnh cáo, nặng thì có thể bị vi phạm mà mang tội. Điều đó chẳng ứng với hào 4 quẻ Dịch Hỏa Phong Đỉnh đã nhắc tới sao. Không thể xem thường nó được.
Những năm cần chú ý trong đại vận: năm 2027 – 45t âm, cần thận trọng xem xét cẩn thận mọi việc, tiến lên thì chẳng làm được việc gì nên hồn, lại còn dễ bị ghen ghét, dễ bị điều tiếng, tranh chấp; năm 2028 – 46t âm, mọi việc vô cùng không tốt, cần thủ thế, chớ nên mở mang gì năm này, đề phòng mọi nguy cơ; năm 2029 – 47t âm tuy có tài lộc nhưng chớ có tham mà sinh biến, nên biết đủ là đủ, cần đề phòng kẻ làm cho mình, kẻ dưới cơ mình có hành động khác thường; năm 2032 – 50t âm, có tai ách bất kỳ nhưng đề phòng trước, cẩn thận, khiêm tốn thì sẽ có quý nhân tới cứu giúp cho mình qua hiểm nạn; 2033 – 51t âm, kinh doanh trì trệ, dễ bị bệnh tật, sức khỏe không tốt, công danh không như ý; 2034 – 52t âm vẫn là làm ăn khó khăn, khá vất vả, tận lực vì công việc mà không được như ý, vô cùng mệt mỏi; 2035 -53t âm bị bạn bè làm hại, khí huyết thương tổn, thân cô thế cô, mọi việc vô cùng bất lợi. Các năm 2026, 2030, 2031 thì khá tốt, đương số cần tận dụng.
Năm nay lưu Thái Tuế nằm ở cung Tý. Năm nay năm Canh Tý, can Canh khiến cho Thái Dương Hóa Lộc ở cung Nô Bộc đại vận, là cung vị Điền Trạch lưu niên, Vũ Khúc Hóa Quyền ở cung Quan Lộc đại vận, là cung vị Phúc Đức lưu niên, Thái Âm Hóa Khoa ở cung Phụ Mẫu đại vận, là cung vị Huynh Đệ lưu niên gặp Hóa Khoa năm sinh, Thiên Đồng Hóa Kỵ ở cung Điền Trạch đại vận, là cung vị Phụ Mẫu lưu niên, gặp Hóa Quyền năm sinh. Đáng chú ý là đương số vào năm Canh Tý bước vào cung Huynh Đệ thiên bàn, là cung vị Phúc Đức của đại vận gặp Hóa Kỵ năm sinh xung cung Tài đại vận cho nên đây là vấn đề hệ trọng nhất trong năm này. Hơn nữa, cung Mệnh đại vận (là cung Tử Tức thiên bàn) phi Tử Vi Hóa Quyền về cung Nô Bộc thiên bàn, là cung Tài Bạch đại vận. Như thế thì Quyền Kỵ đối chiến tất gặp việc chẳng lành. Tượng cung là tuyến Huynh Nô thiên bàn, Tài Phúc đại vận do đó dễ gặp việc liên lụy với bạn bè, người dưới quyền khiến mình bị hao hụt tiền bạc. Mặt khác can Nhâm đại vận khiến Vũ Khúc Hóa Kỵ ở cung Phụ Mẫu thiên bàn, là cung vị Quan Lộc đại vận, cung vị Phúc Đức lưu niên, xung cung Tài lưu niên, lại có can Canh khiến cho Vũ Khúc Hóa Quyền ở chính cung đó là tượng Quyền Kỵ giao chiến thêm lần nữa, vấn đề nối trội là tiền bạc liên đới trong công việc khi xử lý giấy tờ không được rõ ràng. Như vậy là vấn đề rõ ràng, đương số sẽ gặp rắc rối về vấn đề công việc, nó ảnh hưởng đến tài chính của đương số, cũng có thể do quá tin người, mình khẳng khái quá mà thành ra bị người ta lợi dụng; ngoài ra vì bản chất cung lưu thái tuế là tượng Tham Lang Hóa Kỵ ngộ Đào Hoa, Hồng Loan, Thiên Diêu thì rất nên chú ý vấn đề tình cảm ngoài luồng, hoặc khi gặp đối tác mà liên quan các vấn đề đó; cũng không nên có phát sinh tình cảm với người làm, người dưới quyền. Đương số vào năm nay gặp phải hào 3 quẻ Tỷ: “Sánh vai với người chẳng ra người”. “ Không chọn bạn, rất tổn hại”. Tỷ là tượng trưng cho sự đoàn kết nhưng cũng là cạnh tranh gay gắt. Đương số có thể vì mục tiêu tốt đẹp nhưng người khác, kẻ dưới lại không cùng nhịp với mình, hoặc bạn bè ngấm ngầm là đối thủ cạnh tranh với mình do đó việc hợp tác có phần tiềm ẩn những hiểm họa ngầm mà nếu không tỉnh táo thì rất dễ gây tổn hại tới bản thân. Do đó, vấn đề ở đây là đương số nên biết nhìn người và chọn đúng người mà thân thiết hoặc hợp tác, không nên bạ đâu quen đó, ai cũng kết giao chẳng biết phân biệt tốt xấu thì họ cầm dao đâm sau lưng mình lúc nào chẳng hay. Về năm nay thì sức khỏe không có vấn đề gì đáng lo, chỉ cần chú ý bệnh huyết áp, hệ thống hô hấp của mình một cách cẩn trọng là được.
Năm nay lưu Thái Tuế nằm ở cung Sửu. Năm nay đương số 39t âm thì vẫn trong vòng đại vận cung Tử Tức như năm trước. Tứ hóa lưu niên năm nay đối với can Tân là Cự Môn Hóa Lộc ở cung Điền Trạch đại vận, là cung vị bản Mệnh lưu niên; Thái Dương Hóa Quyền ở cung Nô Bộc đại vận, là cung vị Phúc Đức lưu niên, Văn Khúc Hóa Khoa ở cung Mệnh đại vận, là cung vị Tử Tức lưu niên, Văn Xương Hóa Kỵ ở cung Di đại vận, là cung vị Điền Trạch lưu niên. Như thế qua biểu hiện của tứ hóa thì năm nay đương số có nhiều việc cần để mắt tới. Đầu tiên là năm nay đương số có thể sửa chữa nhà cửa hoặc bản thân có thể mua sắm thêm nhà đất cho mình. Năm nay là năm hoạt động khá mạnh mẽ, tần suất phải nói, phải giao tế với bên ngoài nhiều hơn và tựu chung là cũng được người ta chấp nhận. Năm nay cũng là năm đương số có năng lực kiếm tiền mạnh mẽ, tuy nhiên, việc tích trữ được còn phải xem lại xem bản thân mình có quá phung phí hay không. Trong việc hợp tác cũng xuất hiện một số quý nhân giúp mình định hướng thêm đường đi và giúp cho công việc mình suôn sẻ. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là vấn đề nội bộ trong gia đình có nhiều vấn đề cần giải quyết khiến đương số phải nhiều lo nghĩ, đau đầu. Đương số cũng không nên đầu tư nhà đất, bất động sản ở nơi quá xa so với chỗ mình ở bởi vì dễ gặp vấn đề bất trắc về vấn đề giấy tờ, hợp đồng, khế ước. Ý tượng này có lẽ cũng nên cẩn thận với các đối tác ở phương xa, khi hợp tác kinh doanh thì phải dò xem họ có rõ ràng và thực lực họ đến đâu chứ đừng chủ quan. Năm nay cũng là năm đương số có thể đi lại khá nhiều, việc rời xa nhà đi công tác có lẽ cũng ở mức cao. Theo quẻ Dịch thì năm nay đương số nằm ở hào 6 quẻ Phong Địa Quán: “Xét bản thân, hành động của mình xem có hợp với đạo quân tử hay không, nếu có thì không lỗi gì”. Ý quẻ thì năm này đương số cần quan sát, suy xét, đối với việc gì cũng cần phải trầm tư suy nghĩ, giấy tờ, hợp đồng cần tự kiểm thảo cho chắc chắn rồi mới quyết định; không được vội vàng, giữ được sự bình tĩnh và khách quan là tốt nhất. Do hào 6 là hào trên cùng, thời của sự bất lực cho nên ở hào 6 quẻ Quán thì xác định năm nay việc kinh doanh tất không thuận lợi, nhưng không phải là bế tắc mà là có nhiều khó khăn khiến mình phải đương đầu hơn mà thôi. Đương số cần sự tương tác cao với bậc trưởng bối, người có kinh nghiệm, họ sẽ chỉ bảo cho mình con đường đi đúng và có cách tháo gỡ khó khăn. Nên nhớ dù có không suôn sẻ thì cũng không được hấp tấp và manh động, phải sắp xếp nó vào một trình tự hợp lý thì lợi nhuận vẫn có thể có. Về sức khỏe thì năm nay vẫn là các vấn đề liên quan vấn đề hô hấp, ngoài ra còn cả vùng bụng và không nên suy nghĩ nhiều quá, căng não sẽ ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh của mình. Nếu có thể thì đương số nên sắp xếp đi du lịch với gia đình một chuyến khi cảm thấy căng thẳng quá, dẹp công việc qua một bên để mình hồi phục lại mọi thứ cho nhẹ nhàng hơn.
Xem thêm: Dịch Vụ Xem Tử Vi: Xem Mệnh, Chuyển Vận, Đoán Tương Lai