Luận Tật bệnh tiên tri, ngũ tạng lục phủ sở thuộc can chi

26/08/2020 171

Bài viết Luận Tật bệnh tiên tri, ngũ tạng lục phủ sở thuộc can chi. Mời các bạn đọc tham khảo.

( Trích Tam Mệnh Thông Hội)

Ca quyết:

Giáp mật Ất gan Bính ruột non,

Đinh tim Mậu bao tử Kỷ ;

Canh là ruột già Tân là phổi,

Nhâm bàng quang mà Quý chứa thận;

Tam tiêu (*) cũng hướng Nhâm để gửi,

Bao túi đồng về nhập Quý hương.

(*) Tam tiêu:cách gọi của Đông Y, thượng tiêu là lưỡi, thực quản, tim phổi; trung tiêu là dạ dày; hạ tiêu là ruột non, ruột già, thận và bàng quang.

Lại nói:

Giáp đầu Ất đỉnh Bính vai cầu,

Đinh tim Mậu sườn Kỷ thuộc bụng;

Canh là vòng rốn Tân là cổ,

Nhâm cẳng Quý chân từ một thân.

Lại nói:

Tý thuộc bàng quang, tai thủy đạo,

Sửu là ruột, bụng cùng lá lách;

Dần mật phát mạch cùng hai tay,

Mão vốn mười ngón, gan trong chỗ;

Thìn thổ là da, vai, ngực loại,

Tị Mặt, cổ họng , răng , hậu môn;

Ngọ hỏa tinh thần là tai, mắt,

Mùi thổ dạ dàycổ tay cùng sống lưng;

Thân kim ruột già kinh lạc phổi,

Dậu là tinh huyết ẩn ruột non;

Tuất thổ mệnh môn, chânmắt cá,

Hợi thủy là đầu cùng quả Thận;

Nếu dựa phép này suy người bệnh,

Kỳ Bá, Lôi Công cũng truyền lan.

Lại nói:

Ngọ đầu Tị dạ dày cùng hai vai,

Phải trái cánh tay là Thìn Thân;

Mão Dậu hai sườn Dần Tuất cẳng,

Sửu Hợi thuộc chân Tý là âm.

Lại nói:

Càn đầu Khôn bụng Khảm tai đồng,

Chấn chân Tốn cổ Cấn là tay;

Đoài miệng Ly mắt phân bát quái,

Phàm xem tật bệnh nay suy cầu.

Nói đến tật bệnh đều do ở ngũ hành không trung hòa, tức là do ngũ tạng thân thể không trung hòa vậy. Cái ngũ hành thông ở Ngũ tạng (tâm, can, tì, phế, thận), Lục phủ thông ở Cửu khiếu ( 9 lỗ ), phàm thập can chịu bệnh thuộc lục phủ (dạ dày, tai, mật, tam tiêu, bàng quang, ruột già, ruột non), thập nhị chi chịu bệnh thuộc ngũ tạng.

Bính Đinh Kỷ Ngọ hỏa cục thuộc phương Nam Ly, chủ bệnh ở phần trên; 

Nhâm Quý Hợi Tý thủy cục thuộc phương Bắc Khảm, chủ bệnh ở phần dưới; 

Giáp Ất Dần Mão thuộc phương Đông Chấn, chủ bệnh ở bên trái; 

Canh Tân Thân Dậu thuộc Đoài phương Tây, chủ bệnh ở bên phải; 

Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi thuộc Khôn Cấn, chủ bệnh ở tỳ vị cùng trung quản.

Trúng gió chóng mặt lắc lư, say sẫm, ánh mắt tối sầm, huyết không phân phối đều, thiếu niên lên đường xuống tóc, thanh niên cơ bắp, quả dưa khô gầy, thuộc gan là nhà của Giáp Ất Dần Mão mộc chịu giảm bớt là nguyên nhân gây bệnh vậy; 

nhiều máu mủ lở loét nhiều ghẻ lở, lưỡi đắng, cổ khan, câm giọng thuộc tim nhà của Bính Đinh Tị Ngọ Hỏa chịu giảm bớt là nguyên nhân chủ bệnh vậy; 

phù thũng, chân bệnh, vàng thũng, miệng thúi, dạ dày buồn nôn, bệnh sốt rét, thuộc tỳ gia đình của Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi thổ chịu giảm bớt là nguyên nhân gây ra chủ bệnh vậy; 

Mũi nghẹt rượu khô, tiếng nói trục trặc bực bội, phát cáu, ho khan, thuộc phế là gia đình của Canh Tân Thân Dậu chịu giảm bớt là nguyên nhân chủ bệnh vậy; 

nước tiểu đục mang màu trắng, thổ tả, tả lỵ, chứng sa ruột non, thuộc thận là gia định của Nhâm Quý Hợi Tý chịu giảm bớt là nguyên nhân chủ bệnh vậy.

Giáp Ất thấy Canh Tân Thân Dậu nhiều, bên trong chủ động đến gan mật, bệnh lao, tay chân ngu đần tê dại, gân cốt đau đớn; bên ngoài chủ đầu mắt choáng váng, mắt miệng méo vẹo, trái tê phải liệt, chồng chất bổ nhào tổn thương. Gặp Bính Đinh hỏa nhiều không có thủy hỗ trợ thì đàm suyễn lạc huyết, trúng phong bất tỉnh, da tay khô hanh, trong nonh1 miệnh khô. Nữ nhân chủ huyết khí không đủ điều phối, có thai thì sẩy thai. Trẻ em nóng giật kinh phong, khóc đêm ho khan, sắc mặt xanh tối là vậy.

Bính Đinh thấy Nhâm Quý Hợi Tý nhiều thì bên trong chủ tim đau buốt, điên giản lưỡi cao, miệng đau, cổ họng khàn, nóng giật kinh phong, lời nói cà lăm; bên ngoài chủ nóng vả mồ hôi phát cuồng, mắt mờ không sáng, mắc bệnh sa ruột non, ghẻ lở máu mủ, tiểu tiện nước đục. Phụ nữ chủ khô huyết khí kinh mạch không đều. Trẻ em chủ bệnh nổi đậu mùa, ghẻ lở, sắc mặt đỏ hồng là vậy.

Mậu Kỷ thấy Giáp Ất Dần Mão nhiều, bên trong chủ tỳ vị không trung hòa, dạ dày buồn nôn, không ăn, khó thở cổ chướng, tiêu chảy, vàng thủng, chọn lựa ăn uống, buồn nôn, nôn mửa; bên ngoài chủ có tay phải nặng nề, thấp độc chảy vào, ngực bụng có khối u chặn lại. Phụ nữ chủ không chịu ăn uống, nuốt đau, hư nhược, thở dài mệt mỏi. Trẻ em chủ bệnh tích da vàng mềm yếu, trong nóng, ngũ nhiều, sắc mặt vàng nhũn là vậy.

Canh Tân thấy Bính Đinh Tị Ngọ nhiều thì bên trong chủ ruột khô, bệnh trĩ, phân có máu, đàm đỏ ho khan, khí suyễn thổ huyết, như gặp quỷ mất hồn, ưu phiền, táo bón; bên ngoài chủ da tay khô hanh, phổi khô mũi đỏ, mụn nhọt, phù thũng phát ra sau lưng, máu mủ, không có lực. Phụ nữ chủ ho đờm, máu huyết sản hậu. Trẻ em chủ máu mủ, bệnh kiết lỵ, sắc mặt trắng vàng là vậy.

Nhâm Quý thấy Mậu kĩ Thìn Tuất Sửu Mùi nhiều thì bên trong chủ di tinh, ra mồ hôi trộm, đêm nằm mơ thấy ma quỷ, huyết đục hư tổn, rùng mình, nghiến răng, mắt mờ tai điếc, cảm mạo thương hàn; bên ngoài chủ trúng gió, đau răng, sa tinh hoàn, thắt lưng đầu gối đau nhức, thổ tả, sợ lạnh, ghét hàn. Nữ nhân chủ bệnh huyết trắng, thai quỷ, kinh mạch không đều. Trẻ em chủ trong tai lở loét, ruột non đau đớn, ban đêm hay quấy phá, sắc mặt vàng đen là vậy.

Phú nói: Gân cốt đau nhức, bởi vì mộc bị kim thương; mắt bị mờ mê muội, nhất định là gặp hỏa thủy khắc nhau; thổ hư gặp đất mộc vượng, tỳ tổn thương mà luận; kim như gặp đất hỏa viêm thì bệnh huyết không tốt.

Lại nói: Mộc gặp kim khắc, xác định chủ gặp tai ương ở thắt lưng, xương sườn; hỏa bị thủy gây tổn thương, nhất định chủ bị tật ở mắt; tim phổi thở gấp, lại can có kim hỏa tương hình; tỳ vị tổn thương, là do thổ thủy khắc chiến. Chi thủy can đầu có gặp hỏa, nhất định bụng đau mà tâm buồn; Chi hỏa can đầu có thủy gặp thì bên trong con ngươi bị che mù. Viêm Thượng lo buồn tam tiêu bốc lên chiếu sáng thổ thì đầu trọc mắt mờ; Nhuận Hạ thuần thấp không có thổ chế, thì thận hư mà tai điếc; hỏa mê thừa vượng đến Ly Tốn, trúng gió mất tiếng; Thái Bạch kiên cố lợi hợp ở Đoài Khôn, được tiến quân.

Lại nói: Tim thụ bệnh thì miệng không thể nói; Gan thụ bệnh thì mắt không thể nhìn; Tỳ thụ bệnh thì miệng không thể ăn; Phổi thụ bệnh thì mũi không thể ngửi; Thận thụ bệnh thì tai không thể nghe, đều từ ở nơi chủ, để chứng minh hư thực.

Ôi! Người bệnh quá nhiều, chỗ này lý lẽ là không có hai, nhìn, hỏi, nghe, thấy, tiếp xúc chính là nhà y thần kỳ; sinh khắc chế hóa, là dấu hiệu không tin thuật sĩ, như có thể thì nghiên cứu suy xét nguồn cội mà xét nghiệm, không rời phép này.

Luận ngữ nói: An khang, yên ổn sinh ở hòa hợp, tật bệnh bắt đầu từ hình thương. Nghiên cứu lý lẽ ngũ hành suy vượng, suy ra trăm bệnh rõ ràng trong ngoài,bên trong ứng với ngũ tạng, bên ngoài thuộc tứ chi. Mà như khí mộc hưu tù, hai bên tóc mai thưa thớt mà không sản sinh; hỏa đến tử tuyệt, hai con ngươi mờ tối mà không sáng; trong hỏa ẩn thổ thiếu thủy chế, thì tâm thần hoảng hốt; mộc bên dưới tàng kim không có thủy nhận thì chân cẳng bị tổn thương. Giáp Ất Đoài sinh gặp Nhâm Quý, say rượu quê hương mà chết; Bính Đinh Khảm muốn gặp Canh Tân, sông ngòi, bến cảng mà chết. Thủy thịnh mộc trôi, phần nhiều là sinh kiết lỵ; thổ trọng kim vùi, thường là mắc bệnh nóng lạnh nhiều. Chỗ khô thì mắt mờ, do Ất mộc vượng mà Tân kim suy; đau ngứa lở loét, do Đinh hỏa thịnh mà Quý thủy nhược; khối u cứng bị chặn lại làm cho bệnh phù thủng chỉ vì Kỷ thổ thái quá; tức giận, ấm ức làm bệnh liệt là do Tân kim bất cập.

Giáp Ất có thể gây tổn thương Mậu Kĩ, không có cứu mà thiếu thần; Bính Đinh hay khắc Canh Tân, thiếu chế mà mất tiếng, khàn giọng. Trong hỏa có thổ, gáy sinh chứng bệnh tràng nhạc (cổ có từng chùm nhọt như một tràng nhạc ngựa, có khi nó ăn lan cả xuống ngực xuống nách nên cũng gọi là lịch quán ) ; trong thủy có thổ, bụng bệnh phù thũng. Dụng thần bị chế mà bị hình, chết vì bổng trượng; trên dưới gặp quỷ mà không có cứu, chết do trêo cổ xà nhà. Tứ trụ xung nặng nhiều hung mà chết nơi quê người, ngũ hành suy bại bất túc mà bệnh truyền nhiễm mất mạng. Thủy bại lưng gù, không dùng phương pháp hiên kỳ; kim hình là con Rùa quay lưng, là phương thuyền nhỏ yên ổn mà làm con chó tốt. Canh Tân khí tú, Tây phương thấy mộc mà chết ở binh khí; Giáp Ất bại tuyệt, Khôn phương Nam không có thủy, mà không còn cốt nhục; Tân Tị, Bính Thân gặp hình, cánh tay hư nhược mà người có 6 ngón; Kỷ Mão, Mậu Dần gặp địch, dạ dày kém mà thường bệnh mụn nhọt lở loét; Ất Mùi, Giáp Ngọ gặp kim, nhiều người có đầu con Ba Ba; Quý Mão, Kĩ Sửu tương hình, mắc bệnh phát sinh ở thắt lưng, đầu gối; Giáp Thân, Ất Dậu, niên thiếu nhiều bệnh gan; Tân Mão, Canh Dần, về già lao động bị thương gân cốt. Bính hỏa Viêm thượng, đàn ông thường kỵ ở thể xác và tinh thần; Đinh hỏa ở dưới ẩm ướt, nữ nhân bệnh lao mà huyết bị sản hậu. Ngày giờ suy bại, họa lớn khó chữa; can chi hình hại, bệnh nhỏ mà không chữa được. Khí hỗ trợ mà an hòa, khí nghịch mà tai họa tận diệt. Bệnh chứng không rời ở Lục Mạch, sống chết đều ở nơi ngũ hành, tường tận nghiên cứu hưng suy, vạn lần không mất một.

Cổ ca nói:

Mậu Kỷ sinh mùa khí không đủ, 

Tháng giờ hai xứ thấy Thương Quan; 

Tất lấy đầu mặt có hao tổn, 

Máu mủ lở loét thiếu niên khổ.

Lại nói:

Bính Đinh nhật can ngũ hành suy, 

Thất Sát gia tăng đến tam hợp, 

Lên hợp nhật cầu áo cơm thiếu, 

Tai điếc tàn tật mặt bụi trần.

Lại nói:

Nhâm Quý nặng trọng thay nhau xếp,

Trụ giờ nếu như thấy Thiên Tài;

Mặc dù đầu mặt không bệnh chốc,

Định chủ một thân họa mắt tai.

Lại nói:

Con người sinh ra là do thụ khí ở cha, thành hình ở mẹ. Ngũ tạng hòa bình thì không có bệnh, khắc chiến, thái quá, bất cập, đều có bệnh.

《 Nội kinh 》nói:

Đông phương thực Tây phương hư,

Tả Nam phương Bổ Bắc Phương.

Đông phương thực là mộc thái quá vậy; Tây phương hư là kim bất cập vậy; Tả nam phương là hỏa thái quá vậy; Bổ bắc phương là thủy bất cập vậy.

Vốn là lấy ngũ hành thái quá bất cập, đều là chủ bệnh tật vậy. Nếu thủy thăng mà hỏa giáng, hỏa giáng mà kim thanh, kim thanh mà mộc bình, mộc bình mà thổ bất cập khắc, ngũ tạng đều được khí trung hòa, tật bệnh ở đâu mà sinh ra chỗ này? 《 Âm dương thư 》nói: Kim cương hỏa cường, phương tự hình, mộc rơi về gốc, thủy chảy hướng Đông. Cho nên luận tam hình, hình thì tàn tật gây hại, nói thái quá mà thân bệnh tật vậy. Nếu chỉ có lấy bất cập là bệnh tật, nhất định có lỗi thiên vị.

+ Phàm ngũ hành có tử tuyệt mà thành bệnh tật: Thủy tử tuyệt, đa số thận khí thì thắt lưng bị tấn công tập trung, cốt tiết ra liền bị chìm mất mà sinh bệnh bất lợi; Hỏa tử tuyệt, chủ đường ruột khí thắt kín, hồi hợp, dễ quên không nhớ, bệnh tinh thần không an; Mộc tử tuyệt hư khô làm cho mắt mờ mê muội, gân to, móng tay chân khô tụy, mừng giận điên đảo, bệnh chọn ăn chọn uống; Kim tử tuyệt, chủ khí hư thở gấp, ho khan, bề ngoài cháy khô hà tiện, xương khớp đau nhức, nước mắt chảy, ruột già bị kiết lỵ, bệnh tiểu ra máu; Thổ tử tuyệt, chủ mặt vàng, giảm ăn, thân thế uể oải, lười nhác, thích nằm ngũ, lo sầu mà nhiều râu, tai điếc, thần đụa hay quên không nhớ, bệnh ít thích hoạt động.

+ Lại có tương khắc mà thành bệnh tật: Kim Hỏa tương khắc, sinh vượng thì phù thũng, lở loét, tử tuyệt thì bệnh lao nôn ra máu; Thổ Mộc tương khắc, sinh vượng thì chủ mệt mõi, buồn bực, chóng mặt, tê dại, ruột non bị bệnh đau sưng, tử tuyệt thì chủ ăn nôn, táo bón thành cục, bệnh ung nhọt tích lũy không thông, hoặc chủ trúng phong; Kim Mộc tương khắc, sinh vượng thì chủ chân tay xương cốt khớp từng đoạn không xong, bệnh về mắt, tử tuyệt thì chủ khí hư tinh thoát, bệnh lao,bệnh tê liệt; Thủy Thổ tương khắc, thì chủ lá lách ẩm ướt, tiêu chảy, bị đầy đàm, bệnh ho khan.

Có tương sinh mà sinh bệnh tật: Hỏa Mộc tương sinh, sinh vượng thì ở trên bị tắc nghẽn ngăn chặn, mắt đỏ, đầu khô; tử tuyệt thì bệnh thương hàn làm cuồng, bệnh buồn bực hỗn loạn; Hỏa Thổ tương sinh, sinh vượng thì không ăn; tử tuyệt thì môi khô đỏ hồng, nóng nhiệt làm đại tiện không lợi; Kim Thủy tương sinh, sinh vượng thì khí ngưng, tử tuyệt thì cốt trong; Thủy Mộc tương sinh, sinh vượng thì dạ dày hư mà hay nôn mửa; tử tuyệt thì tinh bại, thì bệnh thương hàn dính với sốt rét; Kim Thổ tương sinh, sinh vượng thì cơ thể trống rỗng,tử tuyệt thì ruột kêu làm phồng da chân.

Phàm thủy thổ mộc tương phùng ở nơi vô khí, chủ ruột bị sình, bệnh ói mửa; phàm kim thủy hỏa tương phùng ở đất vô khí, chủ bệnh kiết lỵ, kim chủ đại tràng, thủy hỏa gần là âm dương bất hòa vậy. Phàm thủy gặp thổ, phần đa chủ bệnh dạ dày hay ói mửa; thổ nhiều mà không có thủy khí khai thông thì chủ bệnh điếc. Cái Thận thủy không lưu thông thì dạ dày hay ói mửa, khí bất lực thì là điếc vậy.

Lại nói:

Phàm luận tàn tật bệnh chứng, trước tiên luận nhật can, thứ đến xem nguyệt lệnh, nhưng sau đó xem cả trụ năm và giờ, Thương Quan chủ tàn tật, Sát trọng cũng không sai. Quẻ Càn ở Hợi, Hợi là Thiên Môn, người sinh Lục Tân được ngày này, giớ này, đa số chủ là mù điếc. Hợi thuộc Thận, Thận thông Tai, Bính hỏa gặp thủy khắc vậy; Tý vị trí ở Khảm cung, Thương Quan Sát trọng tương hình, chủ bệnh ở hạ bộ; Dần cung Cấn thổ, chủ tỳ vị, có bệnh ở sắc mặt vàng mà mềm; Thìn thuộc cung Chấn; chổ này tháng có mang Thương Quan, thiếu niên chủ nhiều kinh tật, cái Chấn là động vậy. Khinh thì chủ bệnh về kinh tỳ vị, Trọng thì chủ bệnh ở chân. Tị là cung Tốn, Thương Quan Sát trọng, chủ phụ nữ huyết khí không đều, có bệnh lao; Ngọ là Ly là mắt, Thương Quan Sát trọng, chủ bệnh mất sáng, đầu khô; Thân thuộc Khôn là nhiều âm, Thương Quan Sát trọng, chủ bệnh về thắt lưng, gân cốt, bàn chân; Thương Quan thương tẫn là không luận ở chỗ này; Dậu là Đoài, thuộc bệnh răng miệng không còn. Tuất là hỏa khố, chủ bệnh hạ huyết áp, trĩ lậu. Sửu Mùi Thương Quan, cũng chủ tỳ vị. Thương Quan Sát vượng thì bệnh truyền nhiễm hàng năm, chủ dụng trên dưới có khắc chiến, ngũ hành không có cứu trợ, chủ thân thể không đủ, đầu mặt tàn thương.

Lại nói

Phàm hết thảy nhiều Sát cũng có bệnh tật: Kiếp Sát chủ ở tiểu tràng, lại chủ tai điếc, bệnh yết hầu; Quan Phù chủ bệnh ở thắt lưng, bàn chân; Hàm Trì chủ bệnh tửu sắc, bệnh lao, máu mủ lở loét, bệnh về tiểu tiện không thông; Chuế Háo chủ ám muội, hoặc bệnh khối u; Phi Liêm tên Thiên Cổ, can chi vô khí, chủ không có mắt. Phàm có Lộc thì dựa vào bệnh ham ăn, phương cần phải mang theo Sát khắc thân vậy. 

Phàm mệnh thấy chân xung khí tán, hoặc chân hình khí tán, là người nhiều bệnh tật tàn phế. Giáp Thìn, Giáp Tuất, Ất Sửu, Ất Mùi, thổ mộc khắc tiết gaio nhau, chủ bệnh tê liệt; Bính Thân, Đinh Dậu, kim hỏa khắc tiết giao nhau, chủ bệnh gân huyết chỗ tổn thương; Mậu Tý, Kỷ Hợi, thủy thổ khắc tiết giao nhau, chủ bệnh về lá lách, dạ dày; Canh Dần, Tân Mão, kim mộc khắc tiết giao nhau, chủ bệnh về gân cốt, ho lao.

Phàm muốn suy tật bệnh, tai ách, trước tiên xem Lộc- Mệnh- Thân ba loại, đại tiểu vận như thế nào? Nếu Tam mệnh vô khí, Lộc Mã bại tuyệt, nhưng được Lộc Tài, mệnh Tài, vượng tướng, cũng không đến nỗi chết. Nếu cha già bệnh thì suy ra kỳ mệnh con, như mệnh con gặp Cô Thần, Quả Túc, Tang Môn, Điếu Khách cùng Bạch Y Sát lâm mệnh, thì cha nhất định có bệnh mà không thể cứu vậy. Vợ chồng cũng theo chỗ này mà suy ra. 

(Dẫn theo trang hoc-tuvi.blogspot.com)

Bình luận