TỬ VI – LUẬN VỀ CUNG PHÚC ĐỨC ( ONLINE )

26/08/2020 331

Bài viết TỬ VI – LUẬN VỀ CUNG PHÚC ĐỨC ( ONLINE ). Mời các bạn đọc tham khảo.

Văn Vuong

Với sự tham gia thảo luận của rất nhiều ad , các anh chị , chú bác nhiều kinh nghiệm , Nay vì có 1 số bạn thắc mắc nhắn tin hỏi nên Văn Vuong xin tổng hợp thế này

1 , Xem cung Phúc Đức để biết rỗ sự thọ yểu, cùng là sự thịnh suy, tụ tán của họ hàng. Ngoài ra, còn được biết rõ vê âm phần mà mình chịu ảnh hưởng. Cung Phúc Đức chi phối tất cả 11 cung số. Vậy cho nên luận đoán cung Phúc Đức phải rất cẩn thận :

Thứ nhất, phải làm rõ, cung phúc đức, nhằm ám chỉ cái gì. Nhiều người sẽ nói ám chỉ tổ tiên ông bà, họ hàng. Nhiều người lại nói do mình tạo ra, và nhiều người nói là cả 2.

Phải làm rõ ý này trước: cung phúc đức chỉ và chỉ nói đến họ hàng, tổ tiên của mình mà thôi.

Lấy trục mệnh di làm gốc. Chia lá số làm 2 phần.

2 phần này khác nhau chỗ nào. Đó chính là trong và ngoài.

Ta trong vòng tay cha mẹ, trong mạch adn dòng họ, trong nhà, làng xóm, trong môi trường làm việc, trong cộng đồng, bè bạn.

Ta ngang với anh em, ta cưới vợ chồng, sinh con cái, ta làm, nắm tiền bạc, ta mang bệnh tật.

Như vậy cung phúc đức ở thế ngoài. Không phải mệnh mà bao bọc mệnh.

Có những sao trong tử vi được gọi là phúc tinh, như thiên đồng, thiên lương, tử vi. Nhưng rất nhiều thế đứng của các sao này, cung phúc rất xấu.

Ví dụ mệnh đồng lương cung thân, phúc thái dương hãm. Mệnh tử vi cư ngọ, phúc phá quân hãm, mệnh vũ tướng cư dần, phúc thất sát hãm.

Chẳng lẽ họ vô phúc cả. Không phải như vậy, dày phúc thì có.

Nhưng phúc của họ nằm chính cung mệnh.

Vậy ta phải tách biệt 2 khái niệm, cung phúc đức, và phúc (chữ phúc).

Phúc do bản thân tạo ra, do mình may mắn, trời cho, thì nhìn ở mệnh.

Còn cung phúc đức, đơn giản là nhìn xem họ hàng mình giúp được gì không, và mộ tổ phát không chẳng hạn.

Những người mệnh đẹp phúc xấu, họ vẫn đầy phúc, gặp may mắn, bình yên, sống thọ, nhưng cung phúc xấu, có nghĩa họ tự lực đi lên, họ hàng chẳng giúp gì, và cả họ đó cũng chẳng mấy người giỏi (mộ tổ không phát).

Phúc đức đẹp, họ hàng giúp nhiều, nhiều người thành đạt. Đơn giản vậy thôi.

.

2 , LUAN VE CUNG PHUC DUC

Cung phúc đức thời nay luận đoán tử vi thì không coi trọng bằng mệnh tài quan. Thật ra không phải người cung mệnh tài quan tốt mà phúc xấu là đại phú quý, cũng không phải là Cung Phúc tốt mà cung Mệnh Tài Quan xấu là tốt.

– Nhìn lại các câu phú ở tử vi, các tiền nhân rất coi trọng sự phấn đấu của bản thân để được thành tựu. Mệnh tài quan mạnh thì chắc chắn các cung khác sẽ yếu đi nhiều. Thực ra người có cung mệnh tài quan xấu không phải là người xấu, mà là người không có sự phấn đấu, được hưởng phúc ấm từ phụ mẫu, dòng họ,… ra xã hội được giúp nhiều nên không thể có ý chỉ mạnh được.

– Tôi chắc chắn rằng bạn mà thấy một người có cung mệnh là tử vi cư đúng cách được khoa quyền lộc củng chiếu cũng chẳng phải là người lương thiện, có sự thiện tâm lớn trong người. Thực sự tôi đã kiểm chứng lá số đắc cách không có sát tinh hội chiếu. Điều đó được giải thích vì họ còn tranh giành với cấp dưới, còn thích được lên ngôi cao, điều xấu xa trong tâm trí họ thì phải cho vào chuyện bất bình, vi phạm đến lợi ích của họ mới biết được, không tin cứ thử mà xem. Họ chỉ là sự từ bi, thiện tâm được trỗi dậy mạnh hơn trong 2 tính cách của con người thôi. Bây giờ thì nhà luận đoán tử vi lại cho rằng cung mệnh là cái nội tâm của đương số là sai hoàn toàn. Cái mà thiện ác ở sâu thẳm trong tâm tưởng con người phải nằm ở cung phúc đức và tật ách. Vậy nên đừng bi quan khi thấy mình cung mệnh xấu mà phúc đẹp lại tưởng mình xấu xa độc ác lắm, cũng đừng tự hào khi thấy mình mệnh tốt mà phúc xấu.

– Xét đến tinh hệ Tử Vi cư ngọ, khi đó các cung xung chiếu với Tử Vi là Tham Lang hãm, Thiên Phủ Liêm Trinh là Thất Sát hãm, Thiên Tướng Vũ Khúc là Phá quân hãm chủ là con người có 2 mặt thiện ác rõ rệt trong thâm tâm, sẽ có 2 con đường lựa chọn, một là lấy thiện trừ ác thì các cung sao hãm sẽ bị chế ngự, còn như lấy tham lam ích kỷ thì bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm sẽ không còn tác dụng.

– Sở dĩ tiền nhân cho rằng cung Phúc là cung quan trọng nhất vì nó là tinh thần của đương số với các thách thức trong đời. Thí như một người mà vui vẻ ( Phúc tốt ) suốt ngày không lo lắng chuyện gì thì lại chẳng bẳng người tài giỏi mà cứ đâm đầu vào công việc chăng?. Cái động lực để làm việc kiếm tiền đó là cái tham, muốn được danh vọng để tỏ ra mình hơn người, vậy nên phúc đức mà tốt thì người ta thường không chịu khó phấn đấu hết sức, không có tham vọng để lập nên thành tích lớn lao, hơn nữa đây là do duyên nghiệp báo luân hồi, kiếp trước làm điều tốt thì kiếp này hưởng thụ không phải mệt nhọc lao vào đời để tranh giành đấu đá.

– Nên nhớ rằng mệnh tài quan còn phải nhờ vận, và cái trợ lực cho vận chính là cung này. Cung phúc đức là rất quan trọng vì thí như khi ta bị mất cha mẹ, hoặc là lâm bệnh nặng thì cũng chẳng thấy có điều gì buồn tủi, cuộc đời cứ bình an trôi mãi. Vì khi đó họ luôn được sự an ủi động viên từ chính bản thân.

.

3 , HÌNH TÍNH CÁC SAO TRONG CUNG PHÚC ĐỨC

Thiên Cơ là mộc tinh vật là thảo mộc.

Thái Dương là Bình Dương (ruộng bằng) hình như tấm kính, người là dương hồn (mộ đàn ông).

Liêm Trinh là gò cao nổi lên (như xương sống) hình như người ốm, ngồi một mình.

Thiên Phủ là tổ sơn, Thổ tinh đại địa, linh khí ở hữu đến.

Thái Âm là gò cao chót vót, người là Âm hồn (mộ đàn bà) hình như bán nguyệt.

Tham Lang là bắc thổ chi địa (đất màu bùn đen) vật là thảo mộc um tùm, hình như con chó ngồi.

Vũ Khúc là Cô Sơn.

Hỏa Linh như cái cần dài.

Thiên Lương là đất bụi, hình như cái suốt dài (cái suốt trong khung cửi).

Cự Môn là cuốc đất vuông, ở dưới thì đất vàng, hình như cái chiếu dải.

Thiên Tướng là đất vuông vắn dày dặn hình như cái ấn vuông.

Thất Sát là đất khô đỏ, hình như cây cỏ dài thẳng và nhọn là Cô Sơn.

Phá Quân là cuộc đất tan lở, hình như tên quân thường cởi giáp.

Văn Xương như một cục sắt tròn.

Văn Khúc như giải nước khúc khuỷu.

Phụ Bật là đất no đầy, hình như cái cạp chiếu nổi đầy đều lên.

Thiên Khôi như cái cột tươi sáng dựng lên.

Thiên Việt như hình cái kiếm lớn.

Thiên Mã là hình con ngựa.

Lộc Tồn là đất hình vuông, hình cái thương, là cô sơn.

Dương Nhận là như cái nanh, hay con dao nhọn của lính.

Hóa Lộc là đất bao lần kim khí, hình như cái thương.

Hóa Quyền là đất như cụm cây vuông, hình như cái yên ngựa.

Hóa Khoa là cuộc đất hình cái khuôn cây như cái Bảng.

Hóa Kỵ là đất có nược ngưng tụ, bùn lầy, đất đen.

Không Kiếp là đất hung.

Phi Liêm là hỏa tinh tán loạn là cô sơn (núi đứng một mình).

Hỉ Thần là đất bằng có cát.

Bịnh Phù là đất như cái đai.

Lưỡng Hao là đất khô.

Phục Binh là đất hình nhọn, là phạn lại.

Thiên Hình là đất có mảnh sành mảnh bát vỡ là nhà tù tối tăm.

Thiên Diêu là đất gần nước, ẩm ướt, về thảo mộc thì tươi tốt um tùm.

Tam Thai đất hình tam tinh.

Bát Tọa là đất hình Bát Diệu (8 sao, hình như đồ Bát cống).

Hư Khốc là đất đường nhỏ hư lở.

Long Trì là đất giữ nước, hình cái ao, cái giếng cạn.

Phượng Cát là hình lâu đài, về vật là loài chim sắc đỏ, con Phượng.

Tràng Sinh là đất tụ rất nhiều nước là dãy nước dài.

Mộc Dục là đất tích tụ các thứ nước, nước ở thác xuống.

Thai là Trẩm long chi Thủy (nước có rồng lội).

Dưỡng là nuớc ở ngoài triều đến.

Quan Đới là Huyền Vũ Thủy (khí phách về Võ) là cái Đài là hình bán nguyệt.

Tử là chỗ nước chảy mau, tử thủy.

Mộ là thoái thần chi thủy.

Hồng Loan là hình cái cung, uốn lên như cái mi mắt, hình bán nguyệt là Nga mi.

Thiên Hỉ là Cát bùn.

Thái Tuế là hình cái xương sống gầy khô, hình như cái bút, về người thì chỉ thị phi quan sự.

Tấu Thư là hình Thần long đứng một mình.

Triệt Lộ là như con đường hẻm, đường làng nhỏ, cầu đất đương đầu với Huyền Vũ ắt giòng Trưởng bại.

Tuần Không là đất khoáng đạt không có gì, trong cuộc tán loạn.

Thiên Quan là Miếu Dương Thần Linh là Đình.

Thiên Phúc là Âm thần linh Tự (chùa) là Quán.

Hoa Cái là hình tựa như cái hoa, cái bát, cái cây.

Thanh Long là Trường Thủy (sông lớn) hình người mang kiếm

Phong Cao là hình cái chiếu vuông vắn.

Thai Phụ là hình cái nón

Suy là như cái xương sống gầy, sắc nhọn

Bạch Hổ là đất đá trắng là hình Số.

Phàm luận về phần Mộ thì chuyên lấy cung Phúc Đức làm bạn cung mà định cuộc đất, coi phương hướng lấy Tiểu hạn Can Chi hành độ coi xung hợp ra sao. Lấy xem các sao xung hợp đắc địa, miếu vượng hay lạc hãm mà đoán cát hung xem có Văn tinh ắt phát về Văn, có Vũ Tinh ắt phát về Võ, có Quí tinh thì phát quí, có Tài tinh thì phát phú. Lại cần phải tham bác cho kỹ những Ác sát tinh mà biện luận ắt không sai, lại lấy cả Can chi 12 cung để coi cả cuộc đất gần xa, hình Tinh các phương rất linh diệu vậy.

Xem dương Trạch cũng vậy.

Thiên Cơ, Phong Cáo, Thai-Phụ, Hóa-Khoa đứng đằng trước là Ấn Tín, đứng đằng sau là Bảng.

Cự Môn là con tuợng (voi) Thiên Việt là búa là Kiếm.

Thiên Mã là ngựa (gặp Đà La ở Tị Hợi là ngựa gãy cẳng).

Tam Thai ở cung đằng trước tà Tiền cung, Tam thai.

Thất Sát ở cung đằng sau là Hậu cung.

Thất Sát, Hỉ Thần, Thiên Hỉ là nước.

Khôi Việt là đầu, Tang Môn là châu, Tuần Triệt là Thất Lộ (lạc mất đường).

Địa Kiếp là đường bị nghẽn tắc, gặp Long Trì Thanh Long là sông bị nghẽn, giếng bị tắc.

Thất Sát, Địa Kiếp là Kiếm (vào hạng Tà không Chính)

Sương, Khúc, Khôi, Việt, Long, Phượng, Khoa, Quyền, Tả, Hữu, Hóa Lộc và Văn Tinh.

Vũ Tham, Dương, Lực Sĩ, Linh Tinh ở vượng địa, Tử Vi Thất Sát là Vũ Tinh.

Kình Dương Đà La Hỏa Linh đứng trước cung Phúc Đức là Tiền quan, đứng sau là Hậu quỉ.

.

4 , LUẬN CÁC SAO Ở CUNG PHÚC ĐỨC

Sao Tử Vi tọa thủ cung Phúc Đức, là Thổ Tinh Tổ Sơn đại địa, gặp cát tinh thì phát phúc lâu dài, nếu gặp Hao, Triệt, Không Kiếp là dòng Trưởng bị bại, thứ thì thành, tha hương bôn tẩu, Tổ nghiệp không vượng, địa khí đã kiệt tàn.

Tử Vi là ngôi mộ Ngũ đại nội ở vào miếu vượng địa được hưởng phúc lâu dài, gặp Thiên Phủ, Thiên Tướng thì chung thân được cát tường, gặp Phá Quân thì lao tâm phí lực bất an, hội hợp Thiên Cơ là được hưởng phúc chung thân, gia Dương Đà Hỏa Kỵ Không Kiếp phúc bạc.

Thiên Cơ là Mộc tinh, gặp Không là bóng cây, gặp Triệt là cành cây, cung cây có hoa đẹp và sinh nở được, nếu gặp được Đào, Hồng, Thai, Dưỡng là Phúc, gặp Đà La, Thiên Riêu là đất nghỉ không phát.

Sao Thiên Cơ ở cung Phúc Đức là chỉ về mộ Ông Nội, trước thì lao khổ sau mới được nhàn hạ, với Cự Môn thì có lao lực mới được yên lâu, với Thiên Lương thì được hưởng phúc, với Thái Âm là chủ khoái lạc gia Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp là bôn tẩu không được yên tĩnh.

Thái Dương là Hỏa Tinh gặp Địa Kiếp thì đất thật phẳng, gặp Xương Khúc là Cung Huyệt như nước ánh từng khúc trong vườn thượng uyển, thường an triệt lộ ở bên thì có tài văn võ, là bậc Đống Lương trong nước.

Nếu gặp Đà Kỵ Riêu Linh tức như nước không có mạch mà cứ tiết mãi ra hết ngoài, là như “Vân ám sơn lãnh” (Đỉnh núi bị mây phủ ám) thì nhân đinh bị chết nhiều, có tật ở mắt hay đui mù.

Là ảnh hưởng mộ Cha (Cha còn sống là mộ ông Nội) trong nhà hoang mang rồi mới phát phúc, với Thái Âm là con cháu được yên vui, sung sướng. Với Cự Môn là phí lực mới lâu yên, với Thiên Lương được sung sướng yên vui, nếu là số đàn bà mà có cung Phúc Đức như vậy hội với Cát tinh là chiêu được chồng hiền minh hưởng phúc, gia Dương Đà Hỏa Kỵ Không Kiếp Kỵ Hao thì suốt đời không được mỹ mãn yên vui.

Vũ Khúc là Kim Tinh, hỉ kiến Tham Lang là Địa Khí cao hậu, sơn thủy hữu tinh, Văn võ toàn tài, xa quê hương thì phát Phúc, nếu gặp Tử Vi ở Hãm địa gia Dương Đà Khốc Hư Linh Kỵ là đất có hình dáng mà không có Huyệt, chôn ở đó là đất bại tuyệt, nếu lại gặp Tuần, Triệt, Phá Quân thì cũng làm được về Nghệ Thuật khéo léo, làm Nghệ sĩ chẳng hạn.

Vũ Khúc là mộ Tứ đại nội nếu ở Hãm địa là lao tâm phí lực ở miếu vượng địa là an nhiên hưởng phúc, có Phá Quân hội với là chạy Đông chạy Tây đời không yên tĩnh, với Thiên Tướng thì lão cảnh an khang, gặp Thất Sát là lâu mới được an khang, gặp Tham Lang càng về già càng hưởng được nhiều phúc, gặp Hỏa Linh miếu vượng là được an nhàn gia Dương Đà là hao tâm phí lực.

Thiên Đồng là Thủy Đới Thổ gặp Xương Khúc Khôi Việt Khoa Quyền là đất phát nhiều Quan. Sao Khôi lập ở ngoài chiếu vào là Thiên Hạ cái thế văn chương.

Nếu gặp Đà Kỵ Tuần Triệt Kiếp Không là Huyệt không được chính chỗ tuy phát mà chỉ bình thường.

Thiên Đồng là mộ Tứ đại ngoại, là được hưởng Phúc Thọ sung sướng, với Cự Môn ắt buồn phiền vui ít, với Thái Âm đồng cung là được hưởng phúc, cùng với Thiên Lương là thanh nhàn khoái lạc.

Liêm Trinh là Hỏa Tinh Đới Mộc gặp Thiên Tướng, Lộc Tồn đồng độ là địa khí nhiều mạnh và đẹp. Long, Hổ ở ngoài chầu lại thì quí được Vua phong, phú gia địch quốc. Nếu gặp Cô Thần, Quả Tú thì thành không có Tú khí, trai gái bị cô quả phải bôn tẩu tha hương.

Liêm Trinh là chỉ mộ Chú, đứng một mình là trong hoang mang thì có phúc, với Thiên Tướng là có Phúc Thọ, gặp Thiên Phủ là vui vẻ, an cư lạc nghiệp không bị ưu buồn, cùng Phá Quân là mộ không phát phải lao tâm phí lực, gia Dương Đà Hỏa Linh là lao khổ.

Thiên Phủ là Thổ tinh, tổ sơn đại địa, được phát phúc, trường cửu, nếu bị Tuần, Triệt, Kiếp Không là Trưởng bại thứ thành tha hương bôn tẩu tuy phát nhưng không lâu, địa khí đã kiệt.

Thiên Phủ chỉ mộ ngũ đại ngoại được yên tĩnh hưởng Phúc với Tử Vi là một đời khoác lạc, với Liêm Trinh thân thì yên mà tâm thì hoang mang, cùng Vũ Khúc, nhỏ thì cực khổ đắng cay, trung và vãn niên thì được an lạc hưởng Phúc gia Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp Hao Kỵ là lao khổ đệ nhất.

Thái Âm thủy tinh là địa thế cao vợi, gặp Khoa Quyền chiếu lại ắt được Mộc Tinh khí thủy an cực là đứng đầu Thiên hạ. Nếu gặp Khốc Hư Tuần Triệt, Đà Kỵ là giả huyệt không phải thật, con cháu không được thịnh vượng. Thái Âm là Mộ Mẹ (Mẹ còn chỉ mộ Bà Nội), nhập miếu là hưởng phúc khoái lạc, cùng với Thái Dương là cực mỹ, làm tăng đạo cũng được thanh khiết hưởng phúc lâu dài, cùng Thiên Cơ thì tâm hoang mang, với Thiên Đồng thì an tĩnh vô ưu, gia Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp là có sự ưu buồn thì tốt, đời không được yên tĩnh.

Tham Lang là thủy Tinh gặp Vũ Khúc Khoa Quyền Lộc là địa khí nhiều, âm ỉ lâu bền, đứng đầu thiên hạ, phát mộ Ngũ đại, Nếu gặp Tuần Triệt là như một mở một đóng, một may rủi nhưng cũng không đến nỗi là họa hại.

Tham Lang chỉ mộ Ông Nội, lạc hãm là lao tâm không nên gặp Liêm Trinh thì phúc bạc, cùng với Tử Vi thì về già ắt được an lạc vui vẻ.

Cự Môn là Thủy Đới Kim gặp Nhật, Hỏa Khôi Việt Cơ, Quyền Ấn là Vệ Huyệt (Khí Huyệt), các sao tốt cũng phụ là Văn Võ toàn tài, Riêu Đà Kỵ là hung táng là bị nơi Ác Sơn Ác Thủy, thì bị tai hung, trai gái bịnh tật yểu bần, hình ngục, huynh đệ bất hòa. Cự Môn chỉ mộ Bác ruột, lạc hãm là lao tâm không yên, cùng với Nhật có buồn có vui, cùng Thiên Đồng là huởng phúc, gia Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp là gặp nhiều sự ưu buồn.

Thiên Lương là Thổ Đới Mộc hỉ kiến Văn Khúc, Khoa Quyền là đất phát Văn mà Vũ chiều vậy. Nếu gặp ở nơi Hãm địa và Tuần Triệt Mã Kỵ là địa thế bị hư liệt, trai thì du đãng, gái đa dâm, phá tán Tổ nghiệp.

Thất Sát là Hỏa Đới Kim gặp Tử Vi Khoa Quyền là khi đất ấm áp trong trẻo đất cao trên đỉnh núi trùng trùng điệp điệp, long mệnh chạy tuy đoản (ngắn) nhưng ở ngoài chiều lại, là anh hùng oanh liệt, vũ liệt công hầu. Ở Hãm địa có Dương Đà Không Kiếp Kỵ Riêu Tuế tức là Cô long ngoài không chiều phục thì nhân đinh không vượng, yểu nhược tàn tật bình thường, lao tâm phi lực.

Là Mộ gì gặp Vũ Khúc thì lâu mới yên, với Liêm Trinh là cực nhọc, cùng Tử Vi thì trước lao khổ sau mới an nhàn về sau được toại ý.

Số Đàn bà mà cung Phúc đức có một sao Thất Sát tất chỉ làm Nô tỳ, Ca kỹ.

Thiên Tướng là Thủy Đới mộc gặp Khoa Quyền Khôi Việt là đất long mạch đang lên chiều cao vọi, đời đời Công Hầu bá tước. Nếu gặp Tuần Triệt Không Kiếp thì long mạch bị kim châm chích thương tàn trong hoạn lộ thì bị hoán cải, cách chức, là sĩ thứ thì bị thị phi.

Thiên Tướng chỉ mộ Cậu, đắc địa thì được an nhàn hưởng phúc sống lâu, gặp Tử Vi là khoái lạc, với Thiên Cơ thì hoang mang mà trong được tốt, cùng Thái Dương thì Phúc Thọ song toàn, gia Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì tâm không được yên.

Phá Quân là Thủy Đới Thổ gặp Vũ, Khoa, Quyền, Khôi, Việt là Tú khí ắt Văn Võ kiêm toàn đỗ đạt cao. Nếu ở nơi Hãm địa gặp Liêm Phục Hình là đất ác khí như tinh sơn Kim hình khắc Mộc như bị mũi nhọn đâm vào chết. Là mộ cụ Ngoại, là lạc hãm là lao tâm phí lực, cùng Vũ Khúc là lâu mới yên, với Liêm Trinh là khổ cực.

Cùng Tử Vi là an lạc, gia Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp cả đời không được yên tĩnh.

Văn Xương là Kim Đới Thổ, nếu có Văn Khúc, Khôi Việt Tả Hữu là đất phát con cháu khôi ngô thông minh, phát về sự nghiệp Văn Chương. Nếu gặp Dương Đà Riêu Linh thì bị yểu triết bần cùng, gia Cát tinh nhập miếu là hưởng phúc an lạc.

Văn Khúc là Thủy Đới Hỏa gặp Khoa, Quyền Nhật Nguyệt là Long mạch hội lại rất nhiều, sơn tú thủy hoạt, con cháu trí tuệ thông minh. Nếu ở Hãm địa lại gặp Dương Đà, Hỏa Kỵ Riêu Tuế là đất võ khí, khí ác thủy xạ, tàn tật yểu triết.

Tả Phụ là Thổ Đới Kim, gặp Tử Vi là được Tú khí các tinh tú ở ngoài củng chiếu, tay long tay hổ an bày tuyệt mỹ thì tốt vi Cực Quí, nếu gặp Tuần Triệt Đà Hỏa Riêu Kỵ thì nhân đình bị bại yểu, làm ăn cực nhọc. Đứng một mình thì về già được an ninh.

Hữu Bật là Thổ Đới Thủy gặp Tử Phủ, Khôi Việt là đất tốt, đất được trúng huyệt ắt phú quí trường đại nhân đinh thịnh vượng, người trung hậu. Nếu gặp Tuần Triệt Riêu Kỵ tức là bị Vong Thủy hãm phá nhân đinh bần yểu.

Ở miếu vượng địa thì bình sinh được phúc lộc toàn, mỹ gia Cát tinh một đời ít ưu buồn.

Thiên Khôi là Hỏa Đới Kim gặp Tử Phủ Khoa Quyền là được long cung hậu khí ứng 2 người mà con trưởng được văn võ thọ trường. Nếu gặp Kiếp Thông Tuần Triệt Đà Kỵ thì lại bị phản lại, con trưởng bị bại tuyệt, con thứ thì phá tổ nghiệp bôn ba.

Thiên Việt là Hỏa Đới Mộc gặp Khoa, Quyền Nhật Nguyệt là đất cong cong ôm lấy mộ, được Tú khí con cháu văn hào đỗ Khôi Nguyên. Nếu gặp Thái Tuế Kình Đà Kỵ Kiếp Không Phá ắt là đất bị phạm hung sát, trai thì bị hình chu, gái thì dâm bật bại gia.

Khôi Việt có cả hai sao là quí lắm, quí nhân hưởng phúc an lạc.

Hóa Quyền là Mộc Đới Thổ gặp Khôi Việt Tham Vũ là đất hình cung, Tú khí, văn võ toàn tài, nếu gặp Khốc Hư Đà Kỵ tức là bị “Hoàng Truyền Thủy Thế” là cây bị nắng khô, trai thì tuyệt tự, gái truỵ thai.

Hóa Khoa là Thủy Đới Mộc Khôi Việt Tham Vũ Xương Khúc là đất đắc địa sinh nhân, Tứ khí, văn võ lại tài sinh người tuấn tú khôi ngô. Nếu gặp Tuần Triệt Không Kiếp là phản lại, tha hương cầu thực, hoán tổ ly tông.

Hóa Lộc là Thổ Đới Mộc gặp Xương Khúc Hồng Loan là cuộc đất sơn thủy hướng chiều, Long Hổ chầu lại, người Văn Hoa đẹp đẽ làm đến Công Hầu. Nếu gặp Dương Đà Riêu Kỵ tất bị các khách tinh ở ngoài phản phúc thì trai gái đều bị khốn cùng.

Hóa Kỵ là Thủy Đới Mộc là đất bị ác khí, có gặp Khoa Quyền Xương Khúc Khôi Việt tuy có Địa Long hậu khí, được quí hiển nhưng không bền ắt bị yểu triết bại tuyệt.

Long Trì là Thủy Đới Kim gặp Khoa Quyền Xương Khúc cùng với Thiên Lương, Phượng Cát là đất đắc địa, đỗ đạt cao tột, khoa giáp trùng phùng. Nếu gặp Đà Kỵ Dương Riêu Tuần Triệt tức là giả Huyệt, trong ngoài Long Hổ đều sai, trai thì gian trá lọc lừa, gái thì dâm ô.

Phượng Cát là thổ Đới Mộc gặp Khoa Quyền, Hồng Loan, Long Trì, Tử Phủ là đất được trong ngoài tú mỹ thì trai ăn học văn chương cao vọi, gái ắt Hoàng Phi. Nếu gặp Đà Kỵ Kiếp Không là Long Hổ bị thương tàn ắt không toàn mỹ.

Lộc Tồn thuộc Thổ gặp Cự Cơ Quyền Lộc thì được phú quí, làm quan đến Công hầu quí hiển, nếu gặp Không Kiếp Tuần Triệt, nhị Hao tức là Thủy triết bị tán bại, khốn cùng ly tổ. Ở miếu vượng địa là chung thân phúc hậu, gia Cát tinh được Hỉ Phúc.

Thiên Mã là Mộc Đới Hỏa gặp Khoa Quyền Khôi Việt là Văn Hoa tuấn tú quí hiển lại có kỳ tài. Nếu gặp Dương Đà Riêu Kỵ là tất bị Long Hổ lệch vẹo ắt trai gái dâm loạn, tàn tật yểu triết.

Thiên Quan quí nhân là dương Hỏa là đất đại quí gặp Xương Khúc Khoa Quyền Lộc, Khôi Việt là Văn Khôi cao sĩ, gặp Tham Phá Vũ là Vũ cách đến bậc Công Hầu. Nếu Tuần Triệt Hoa Cái, Tấu Thư là nhà Sướng ca có tiếng tăm, gặp Đà Kỵ Riêu Kiếp là bị tàn tật hôn mê ngu xuẩn.

Thiên Phúc quí nhân là ám Thổ, là cuộc đất rất đẹp, gặp Tử Phủ Hồng Đào thì trai làm Phò mã, gái Cung Phi. Nếu gặp Phá Đà Riêu Kỵ Tuần Triệt là hung địa, trai làm Đạo sĩ ly tổ phiêu lưu.

Phong Cáo là Thổ Đới Thủy gặp Tham Vũ Khoa Quyền là địa khí Cát tú; huyệt họa nơi nguy nga đẹp đẽ, được công dan hiển hách, vinh hoa phong tặng. Nếu gặp Tuần Triệt Đà Kỵ Hư Hỏa Kiếp ắt cả đời bôn tẩu không thì ở chốn thiền môn.

Thai Phụ là Thổ Đới Kim gặp Khôi Việt, Nhật Nguyệt Tả Hữu đều chầu về huyệt ắt được văn võ công hầu. Nếu gặp Không Triệt Riêu Linh Phá Cự là Sơn thủy thô sơ ắt bị tuyệt vong.

Tấu Thư là Kim Đới Thổ gặp Khôi Việt Nhật Nguyệt là văn học thành tài, nếu gặp Riêu Kỵ Thái Tuế là bại địa thì hay sinh ra người điên.

Hỉ Thần là Hỏa gặp Hồng Hỉ Phủ Cơ là Quí địa ắt phát Công Hầu nếu gặp Đà Kỵ Tuần Triệt Riêu Mã Mộc dục ắt là Thủy phá nguyên dầu (suối nước bị phá từ dầu), thì trai gái dâm đãng.

Bệnh Phù là Thổ Đới Mộc gặp Riêu Kỵ Dương Đà là Ác Thủy phạm nguyên oa (là hung ác thủy phạm huyệt) trai bị phong cùi, gái bất đắc kỳ tử.

Đại hao Tiểu hao là cuộc đất bị nung nóng, gặp Tử Phủ Khoa Quyền Khôi Việt cũng không được tốt.

Phục Binh là Hỏa Đới Kim gặp Khôi Việt Tuần Triệt Thất Sát là đại địa phát về Binh nhung uy chấn Thiên Hạ, nếu gặp Hình Kỵ Không Kiếp ở Tứ Mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi) thì không tránh được nạn đao binh ác sát.

Kình Dương nhập miếu là trong nhà bị động như ốm đau tang tóc thì mới bắt đầu phát phúc, lạc hãm là lao tâm lâu mới có lực, hội với Cát tinh thì giảm được ưu buồn, một mình thì thân tâm bất an.

Đà La đứng một mình thì làm việc cực khổ, nhập miếu là có phúc lộc, hãm địa là bôn ba, gia Cát tinh thì về già có phúc.

Hỏa Tinh thì lâu yên lao lực tâm khổ, gia Cát tinh thì về già được toại trí.

Linh Tinh là lao khổ gia Cát tinh thì bình hòa, đứng một mình thì cay đắng đa đoan.

Đẩu quân gặp Cát tinh thì năm đó được yên tĩnh, gặp hung tinh thì bị hung sát lâu mới yên.

5 , VÒNG TRÀNG SINH TRONG CUNG PHÚC

Người xưa có luận về Vòng Tràng sinh và đại hình phong thủy, nhưng cốt yếu chưa phải ở đấy, mà ở chỗ ảnh hưởng rộng rãi về phúc ra sao:

1. Tràng Sinh:

Tràng Sinh – Đế Vượng ta hay nói đa đinh. Nhưng tràngsinh là chỗ ngũ hành sinh ra, khí vẫn đương non nớt vàchủ sự di động, không hợpvới cung Phúc. Về hình thế hay nói có thủy bao bọc, nhưng xét đây chưa phải chỗ thủy tụ, cũng chỉ là chỗ thủy đương xuôi chảy. Xét sơn khí, đây cũng chưa phải chỗ núi dừng kết huyệt.

Về nhân sinh, cung Phúc có Tràng sinh tất sinh người có trí, lại năng động, ưa điều tiến bộ, nhưng chưa chu đáo ,cuộc sinh kế tuy có sáng kiến mở mang, song hao sức bươn chải,làm nhiều hơn tụ. Mệnh nhị hợp với tràng sinh lại tốt, hay may mắn khỏe lẹ, đượcphúc đức phò trợ.trừ dư không được hưởng phúc tổnhiều, mả có kết phát cũng người khác được hưởng.

2. Mộc dục: Phúc bại, ưa sắc dục, trong họ hay có tình duyên ngang trái. Bản thân cũng vất vả, đời trôi nổi, coi thêm cung Tật để định bệnh sắc dục, yếu sinh lí, hay mắt kém, thận suy, phát tác vào tuổitrung niên. Khí nhà không còn vượng.Tính nết bồng bột

3. Quan đới: Khí nhà đã bộc lộ khởi từ vị trí này. Chủ mạnh mẽ về đường thanh quí, nhưng khả năng giải họa chỉ bìnhthường thôi. Bản thân triển vọng, có bôn ba cũng thành công đã hẹn.

4. Lâm quan: Là ngũ phúc đáo đường. Tính giàu độc lập, cơ nghiệp bền vững,lâu dài,đảm đương cán đáng. Chủ phú quí thọ, giải họa rất mạnh.

5. Đế Vượng: đừng tưởng Vượng tại Phúc là hoàn mĩ. Các đời đều có đế vượng trong Phúc thì họ đa đinh, nhân mãn nhưng bất tài, dòng họ không lấy gì làm phát. Đương số nếu cung Mệnh đẹp thì thành công sớm nhưng dễ chịu cảnh chóng tàn. Về phúc thọ vẫn được thừa hưởng,khả năng giải họa vẫn có,thời không được như Lâm quan thôi.

6. Suy: mả này còn phát. Nếu cung Mệnh đẹp không hề gì, vẫn thành công như thường.

7. Bệnh: số cực,không có phúc phò trợ

8. Tử: Không phải Tử mà xấu, vẫn cóphát nhỏ. Thường có âm đức vừa phải, nhưng kị đi với Tử phù.

9. Mộ: phúc đẹp, mệnh đẹp thì phát phúc, âm đức mạnh,giải họa.

10. Tuyệt: mộ vô khí, bị xâm hại. Đương số thân tự lập, nhưng chí lớn nếu xét mệnh đẹp,không thì cố sức vẫn bất toại. Ở đây phải biết nếu sao trong cung ấy đắc vượng thì không tuyệt nữa.

11. Thai: Cách này phù hợp kẻ Sát Phá Tham và Không Kiếp đắc vượng. chính tinh ởPhúc vượng thì số rất hay, có mộmới kết phát, phúc phát độ trung niên, khi đó lên rất chóng. Cung Phúc sao chính tinh hãm gia sao xấu thì cả đời bất hiển.Chính tinh hãm, thêm có trung tinh đắccách phò trợ, mệnh đẹp vẫn nên quan nhưng tai họa bất ngờ, bệnh tật và không hạnh phúc về nhân sinh.

12. Dưỡng: là cách phúc đẹp, ngay cả khi sao Tuyệt thủ mệnh vẫnkhông phải mệnh tuyệt khí, do đó mà ta thấy nhiều người mệnh có sao Tuyệt vẫn hiển đạt bình thường. Đây ví như khí phúc còn đương vun vén tài bồi.

Những sao kể trên phải kết hợp với chính tinh, cách cục các sao, lại xem thêm cung Mệnh cho việc luận đóan được chu tất.

Thứ Nhất – Sơ lược về cung Phúc Đức:

Phúc Đức là cung cần phải xem cho kỹ, vì người ta có ảnh hưởng liên lạc đến cái âm đức của các Tiền nhân để lại như người Mệnh thật tốt mà Cung Phúc kém ắt cái hạnh phúc ở đời không được toại mãn. Lắm người Mệnh thật xấu Thân xấu, Hạn đi thường thường mà cung Phúc được tốt ắt là đời được hạnh phúc mỹ mãn. Muốn cho dễ hiểu tôi ví cái Thân Mệnh con người như cái áo dệt để bao thân thể, có hai thứ bằng gai, bằng tơ, bằng vải, bằng lụa, cái nào cũng có chỉ ngang chỉ dọc. Nhưng có cái lại có bông hoa đẹp đẽ, màu mè xinh tươi bọc lên tấm thân các vị Vua Chúa. Được nâng niu quí báu, có cái lại bọc cái thân xác ốm o của người bần hàn ti tiện. Thế là nghĩa làm sao?

Cái Phúc đức ta có thể tượng trưng trong ví dụ này là cái vị của cái áo ở được nơi quyền quí hay ở chỗ thấp hèn. Cũng như con người sao lắm người tài ba lỗi lạc mà thi không đỗ, ra xã hội lại bị nhiều cảnh éo le, lắm kẻ ngu muội hèn nhát lại được hưởng muôn sự hạnh phúc ở đời. Nếy không có những sự ảnh hưởng vô hình mà ta gọi là Âm Đức, ắt ta cho những sự chênh lệch khắt khe ấy là vô lý, không có Số Mệnh và Đạo Trời bất công vậy. Cho nên người có Âm Đức được hưởng vạn phúc lành bất kỳ trong trường hợp nào cũng vậy. Nếu Mệnh số là thứ dân ắt cũng được hạnh phúc vui vẻ, tai hoạ, qua khỏi, nếu là kẻ sĩ ắt phong vân gặp hội mà đường hoạn lộ ắt được cao thăng.

Cái Phúc Đức của Tổ Tiên để lại theo phương Đông là do Tiền nhân, mà cái xương cốt còn lại có ảnh hưởng trực tiếp với con cháu về sau. Khoa học hiện tại cho ta biết rằng có Nguyên tử mà Nguyên tử là bất diệt, nên những cái Nguyên tử của Tiền nhân còn lại ở Xương Cốt một khi được nhuần thấm các Thiên Khí, phong thuỷ đều hoà ung đúc thành như một cái máy “Phát khí lực” xấu hay tốt cho con cháu đời sau. Con Cháu đời sau đã sẵn có những loại Nguyên tử gia truyền, có người hợp kẻ xung, để chịu ảnh hưởng mau hay chậm những Âm Đức của Tiền nhân phóng ra. Đây một nguyên lý cao siêu vô hình mà các bạn có thể tưởng tượng cái Mồ mả của Tiền nhân như một đài “Phát Thanh” và các con cháu sau này như những cái máy “Thâu Thanh”. Máy “Phát ra” này người Phương Đông lấy ở Mồ mả Tiền nhân làm căn bản, nó có thể hữu lý và chúng ta đã biết rằng Nguyên tử là bất diệt vậy. Nếu muốn tồn tại cái Phúc vì vậy người á Đông ta có môn Địa lý để phong thuỷ mồ mả, đó chỉ là một Khoa Học cao siêu biết được cái ký của Đất thu được Thiên Khí để hấp thụ cái di hài con Người còn lại là xương cốt

Bắt đầu từ đây giải xem cung Phúc đức:

Cung đằng trước là Tả là ngoài: Ba phương là Ngoại Long, Hổ và Khánh Sơn:

Cung đằng sau là Hữu là sau. Dương trạch âm phần đều xem như vậy. Ví dụ như cung Phúc đức ở cung Tý, cung Sửu ở đằng trước là Tả, cung Hợi là đằng sau là Hữu. Ba phương thì: Ngọ là Khánh Sơn, Thân là Long , Thìn là Hổ . Thân Tí Thìn tam hợp là ba phương. Xem Dương Trạch thì lấy cung Mệnh là Bản cung, xem hành hạn cũng vậy.

Vua Cao tổ nhà Hán tuổi Giáp Ngọ sinh ngày 13 tháng 11 giờ Ngọ mệnh an tại NGọ có Tử vi Tả Hữu Song Lộc Hóa KHoa xứng đáng ngôi vị hoàng đế lâu dài .Vậy mà PHúc đức có Phá Quân Hóa Quyền bị TRiệt.Thử hỏi nếu Phúc đức chi phối mệnh thân thì làm sao tồn tại nghiệp Đế hàng mấy trăm năm.Phải chăng Tài Thọ ở Di ông đa rất rộng lượng nhân ái với mọi tầng lớp nhân dân.Tài THọ hợp chung là những tốt đẹp bộ đôi này đem đến.(sao THiên Tài ,Thiên Thọ an theo năm sinh tính từ Mệnh Thân).Đến đây Phúc đức đã hiện nguyên hình là Thiên Thọ do Thân sản xuất chi phối cả Tứ Đức.

Nói Tóm Lại : Cung phúc đức, nếu nói là thể hiên hết do tiên tổ người đó để lại cũng không có đúng mà chỉ mang tính khái quát, thực ra chịu trách nhiệm cũng ko nhiều.

Mặc dù người đó bản thân khi sinh ra trong gia đình đó, thì họ có nghiệp phù hợp với cha mẹ, ông bà. Nên hạt giống căn cơ, phúc phận tương đồng.

Nhưng nếu ko chịu tu hành, làm thiện tích đức . Thì cũng chẳng đạt được gì , Sớm nở tối tàn mà thôi.

  • 22 hrs · “}” data-reactid=”.3.1:4:1:$comment666618850135794_667061753424837:0.0.$right.0.$left.0.3.$likeToggle:0:$action:0″ href=”https://www.facebook.com/groups/tuvilyso.vn/permalink/666618850135794/#” role=”button” style=”color: #3b5998; cursor: pointer; text-decoration: none;” title=”Like this comment”>Like

  • Trung Bảo Lêbài viết về cung phúc này nội dung khá giống với phần luận phúc đức trong cuốn ” Tử vi đẩu số tân biên” của cụ Vân Đằng Thái Thứ Lang, theo mình nguồn kiến thức trên khá tin cậy.

    Mình xin bổ xung thêm phần luận đoán âm phần 14 chính tinh:

    Mỗi chính tinh tượng trương cho một ngôi mộ, chính tinh ở cung phúc chính là mộ phần có ảnh hưởng nhiều đến đương số:

    1. Tử Vi : mộ tổ xa đời ( thường là năm đời) thế đất to lớn gần núi, đồi.

    2. Liêm Trinh : Mộ chú,, nếu lúc sinh ra chú đã khuất bóng, nếu lúc sinh chú còn thì là mộ ông chú, đất khu vực ngôi mộ khô khan, gồ ghề, nổi cao, đất có sắc đỏ hoặc vàng

    3. Thiên Đồng : Mộ tổ 4 đời, mộ nơi đất trũng xung quanh có nước

    4. Vũ Khúc: Mộ tổ năm đời, thế đất cao trơ trọi, có hình như quả chuông dựng đứng

    5. Thái Dương: mộ cha nếu lúc sinh ra đời cha đã mất, nếu cha còn thì là mộ ông nội, nếu ông còn thì là cụ nội.. thế đất khu mộ bằng phẳng

    6. Thiên Cơ : Mộ ông nội nếu lúc sinh ra ông đã mất, nếu ông còn thì là cụ nội. xung quanh ngôi mộ có nhiều cây cối mọc rậm rạp

    7. Thiên Phủ: Mộ cụ tổ ( thường là năm đời) thế đất to lớn gần núi đồi

    8. Thái Âm : Mộ mẹ, bà nôi, cụ nội( cụ bà) thế đất chạy dài và uốn cong

    9. Tham Lang: Mộ tổ ( 6-7 đời) đất nổi cao như hình con chó ngồi, sác đen như bùn có nhiều cây cỏ rậm rạp

    10. Thiên Tướng : mộ cụ tổ 5 đời, đất nổi cao và vuông vắn như hình cái Ấn

    11. Cự Môn : Mộ Ông bác ruột, nếu lúc sinh ra đời bác đã mất, nếu bác còn thì mộ của ông bác (bên nooik) thế đất vuông vắn thường ở gần đình, chùa. đào sâu thấy ở dưới có lớp đất màu vàng

    12. Thiên Lương : Mộ cụ tổ 4 đời, đất rời rạc có lẫn nhiều cát, có hình như cái thoi dệt vải, thường ở gần đường đi.

    13. Thất sát : Mộ cụ tổ 5 đời, đất khô nóng, có sắc đỏ và có hình như thân cây dài nằm ngang

    14. Phá Quân: Mộ cụ tổ 4 đời, đất tan lở, không có hình thế nhất định, 

    Trên đây là hình thế đất khu vực ngôi mộ mà đương số chịu ảnh hưởng nhiều nhất, ngoài ra việc giải đoán hình thế đất khu mộ còn phải căn cứ vào các phụ tinh, tuy nhiên do lượng kiến thức nhiều mà mình ngại viết nên chỉ tạm đưa 14 chính tinh để các bạn nghiệm lý

(Dẫn theo trang hoc-tuvi.blogspot.com)

Bình luận