Về Hỏa Tinh Linh Tinh, cổ nhân từng xem xét kỹ rồi lập ra 2 cách cục, một là “Hỏa Linh giáp mệnh” và một là “Linh Xương Đà Vũ”, bài viết nói về 2 cách cục này. Người xưa nói “Hỏa Linh giáp mệnh vi bại cục”, về phần “Bại cục” ví như có hỏi cũng chẳng có thuyết minh. Chiếu theo Vương Đình Chi biết, ở Đẩu số phàm cung bị một cặp Sát tinh giáp biên, nhất định sẽ hội sinh ra khuyết điểm, như “Dương Đà giáp”, “Không Kiếp giáp” và “Hỏa Linh giáp”. Hỏa Linh giáp cung, sinh ra bệnh tật hay sự cố gì, ứng với tinh hệ bị sát tinh giáp biên mà định, thông thường thì vậy, còn lại là khiến cuộc sống giảm chất lượng.
Cùng một nguồn dạng xuất thân, cùng một quá trình học vấn, thậm chí cùng cơ cấu đảm nhiệm một công việc, rồi sau đến tuổi trung niên, một người thăng một người trầm, thì người trầm dễ có thể có cách cục “Hỏa Linh giáp mệnh” mà chính tinh ở cung Mệnh lại vô lực, đó là lý do. Nếu cung có tinh hệ bị giáp Hỏa Linh hữu lực như Vũ Khúc Thất Sát, Vũ Khúc Thiên Phủ, Liêm Trinh Thất Sát, Tử Vi Thất Sát, tắc chủ nhân vẫn có thể hồ hởi phấn khởi, nhưng gian lao khó tránh khỏi. Nhưng nếu cung vị mà Hỏa Linh giáp có Kình Dương, tắc phán đoán thời liền phải hết sức cẩn thận; sao Kình Dương này có thể trở nên thiện hay ác, không thể đại khái mà nói được, ứng thiện hay ác phải quan sát từ lá số tam phương tứ chánh hội hợp tinh diệu mà định tính chất của nó.
Về cách “Linh Xương Đà Vũ”, tất là cung an mệnh ở Thìn Tuất mà tam phương tứ chánh tập hợp bốn sao Linh Tinh, Đà La, Văn Xương, Vũ Khúc. Cổ nhân gọi là “Linh Xương Đà Vũ, hạn chí đầu hà” chủ có thủy ách (tai nạn sông nước), tại sao lại sẽ có thủy ách, hẳn là cổ nhân thông qua những chinh nghiệm được mà đi ra kết luận. Chiếu theo kinh nghiệm của Vương Đình Chi kỳ thực cũng có thể chỉ điềm báo tai nạn thông thường, hơn thì chủ bất trắc trong giao thông.
Hẳn nên lưu ý, nếu nguyên cục có Vũ Khúc cùng Linh Tinh hội chiếu (không phải là Hỏa Tinh), liền cần đại hạn hoặc lưu niên có Lưu Xương (*), Lưu Đà hội hợp, đó là thành cách cục “Linh Xương Đà Vũ”, gom Lưu Xương Lưu Đà vào trong cách cục này. Ví như nguyên cục đã có Đà La hoặc Văn Xương, mà Lưu Đà hoặc Lưu Xương nhập cục, xung với Xương Đà nguyên cục, tai họa tức dễ phát tác, hẳn là năm ấy cẩn thận sức khỏe, đồng thời thận trọng đề phòng thủy ách và bất trắc giao thông – Vương Đình Chi đoán qua lá sốc của con của một vị bằng hữu, lưu niên gặp cách cục “Linh Xương Đà Vũ”, Vương Đình Chi hết sức khuyên ngăn không nên chạy xe gắn máy, nhưng năm đó vẫn chạy xe đạp đụng người đi đường, gây nên một vết thương nhẹ.
Chú thích:
(*) Lưu Xương: theo sách “Phép an sao và đoán mệnh có thực” của Vương Đình Chi, hai sao Lưu Xương Lưu Khúc an theo Thiên can năm tháng ngày nhập hạn:
Bài ca an Lưu xương, Lưu khúc:
Lưu Xương khởi tị vị
Giáp ất thuận lưu khứ
Bất dụng tứ mộ cung
Nhật nguyệt đồng niên tuế.
(Lưu Xương khởi từ cung Tị, theo chiều thuận bắt đầu là Giáp, đếm đến Can năm (hoặc tháng) tính hạn. Bỏ qua bốn cung tứ mộ là Thìn Tuất Sửu Mùi)
Lưu Khúc khởi dậu vị
Giáp ất nghịch hành tung
Diệc bất dụng tứ mộ
Niên nhật nguyệt tương đồng.
(Lưu Khúc khởi từ cung Dậu, theo chiều nghịch bắt đầu là Giáp, đếm đến Can năm (hoặc tháng) tính hạn. Cũng bỏ qua bốn cung tứ mộ là Thìn Tuất Sửu Mùi)
Điều này do Trung Châu Phái truyền thụ.
(Dẫn theo blog Trần Nhật Thành)