10 điều soi sáng cho khoa nghiệm lý tử vi

19/08/2020 393

Bài viết “10 điều soi sáng cho khoa nghiệm lý tử vi” trình bày kinh nghiệm của GS Lê Trung Hưng trong việc giải đoán lá số tử vi. Đây là những điều soi sáng cho việc giải đoán, nghiệm lý lá số tử vi.

Giáo sư Lê Trung Hưng là một nhà nghiên cứu về khoa Tử vi. Ông thâu thập được rất nhiều kinh nghiệm, qua các lá số của thân nhân, bạn bè, ông lại có biệt tài dẫn giải các kinh nghiệm đó theo lối trình bày pha trộn cả Đông phương và khoa học Tây phương. Nhưng ông không có coi số cho thiên hạ.

Điều đáng quý ở ông cũng như ở cụ Thiên Lương, là dẫn giải tường tận những kinh nghiệm đạt được trong Tử vi, hoặc là kinh nghiệm riêng, hoặc là kinh nghiệm được truyền thụ do cụ Thiên Lương, hoặc là những kinh nghiệm cũ được hiểu qua ánh sáng mới. Giai phẩm Khoa học Huyền Bí được hân hạnh đăng những bài dẫn giải của giáo sư Lê Trung Hưng, và rồi sau này, sẽ còn trình giải thêm nữa về những điểm đã được nêu ra tại đây.

I- PHẦN KHAI TỪ

Khoa huyền bí Đông Phương thật vô cùng phong phú, nào bốc dịch, nào thần tướng diện, nào nhâm độn, nào địa lý … nhưng phải thành tâm mà nói thêm: Khoa Tử-vi Đẩu Số có những nét khả tín nhất. Bởi lẽ môn này đã căn cứ vào những yếu tố thời gian tương đối đặc thù của mỗi cá nhân: năm, tháng, ngày và giờ sinh, tạo thành sử mệnh cho mỗi cá nhân một cách huyền diệu. Khoa Tử-vi mỗi ngày càng phơi bày nét chính xác của một ngành học nhuốm tính cách nghiệm lÝ và nhân văn, nó bộc lộ rõ rệt cái khuynh hướng của mỗi số mạng, nó chỉ vẽ dù là bàng bạc cái nghiệp của con người trong cuộc sống, cũng như thể hiện được tinh thần tự do của con người (Xưa nay nhận định thằng thiên cũng nhiều – Nguyễn Du). Định Mệnh trong Tử-Vi chỉ có nghĩa là một khuyến cáo (hơn là một loan báo), kêu gọi chúng nhân tự điều chỉnh đời sống, công danh của mình, để hóa giải phần nào cái căn quả nhận chịu ở đời này (Đức năng thắng số), rồi từ đó tạo cơ duyên hạnh phúc trên căn bản tự giác tự tha. Tử-Vi có ưu điểm là phải luận giải (khoa Áo-Bí biện chứng) tích cực, chứ không phải phú đoÁn tiêu cực như cổ nho, vô tình làm làm cho Tử-vi bị du vào địa hạt huyền bí (hiểu theo nghĩa bao gồm những luận cứ viễn vông). Tử-Vi không thể hiểu theo nghĩa huyền bí thiếu xác tín, mà phải hiểu là khoa nghiệm lý (nghiệm cái lý của siêu việt tính). Thế nên những công trình nào quyết tâm đi tìm cái chân lý tiềm ẩn trong bản số Tử-vi, cũng nên quảng bá, truyền thông cho tha nhân cùng soi sáng. Trong phạm vi bài tham luận này, kẻ viết chỉ xin triển khai một vài điểm kinh nghiệm đã thấy cảm ứng khá rõ rệt.

II- PHẦN KINH NGHIỆM THÂM CỨU

Gồm có 10 chủ đề diễn ý một cách tương đối nét tinh hoa của bản số Tử-vi

1/ Đức trọng qủy thần kinh: Thiên đức, Nguyệt đức, Phúc đức, Long đức, Thiên quan và Thiên phúc.

2/ Huyền thọai của chính diệu: Tứ Hóa (Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Kị)

3/ Tha nhân là địa ngục: Thế tương quan Cung Mệnh – Cung Di

4/ Cơn bĩ cực hồi thái lai: Vòng ThÁi tuế trong đại hạn và tiểu hạn

5/Thuận thiên giả tồn nghịch thiên giả vong: Thế ngũ hành sinh nhập ở Tứ sinh và Tứ tuyệt

6/Tham thì thâm: Thế lấn của vòng Thái tuế

7/ Đời là bể khổ: Vai trò của Thiên mã

8/ Chung thân đối kháng: sao Thiên Tài

9/-Bản tính nhân chi sơ: người âm, Dương với cung âm, Dương

10/Thời thế tạo anh hùng: các sao trong lưu niên tiểu hạn.

1- Đức trọng quỷ thần kinh: Thiên Đức, Nguyệt Đức, Phúc Đức, Long Đức, Thiên Quan và Thiên Phúc.

Trong hàng ngũ các sao hiền của bản số Tử vi mỗi người, ai cũng biết, mà cũng ít ai lưu tâm đến, đó là bộ Tứ đức và bộ Quý nhân. Tánh chất của bản thiện thường là hành động trong âm thầm, không lớn lối, không vung vít như bộ hung tinh chiến lược (Lục sát). Quý vị cứ kiểm nghiệm mà xem bộ Tứ đức và lưỡng Quý nhân luôn hóa giải dễ dàng những tai ương do hai quỷ tinh Tuần và Triệt gây ra (huống hồ là Thiên Không, xá gì ). Hay nói một cách khác bộ Tứ đức và lưỡng Quý nhân không sợ sự kềm kẹp cương tỏa của Tuần trung và Triệt lộ. Ngược lại nhiều khi chính nhờ bộ Tứ đức và lưỡng quý nhân này đã chiêu hồi Tuần trung và Triệt lộ để giải tỏa các hung tinh khác. Cho nên vào đại hạn hay tiểu vận có bộ Tứ đức hay bộ Quý nhân này trấn áp, thì cứ yên tâm về sự xuất hiện của hai quỷ tinh Tuần trung và Triệt lộ, chính sao Tuần còn mở đầu cho một hạnh thông nữa là đàng khác.

2- Huyền thoại của chính diệu: Tứ Hóa

Nhiều người say mê môn Tử-vi thường có thói quen đam mê luôn bộ Tứ hóa đắc cách và cho rằng Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Kỵ (đóng ở Tứ mộ) là bốn sao thần thánh đem bóng dáng hạnh phúc lại cho mình, rồi nhiều khi quên đi cả các chính diệu hiện diện tại cung có Tứ Hóa ấy. Đây là một sự nhầm lẫn cần phải phản tỉnh ngay: Khoa Tử-vi gắn liền với sinh hoạt nghiệm lý mà cố tử vi gia Thiên Lương đã dày công chủ trương khi còn sinh tiền, nên lúc nào cũng cần phải có sự suy luận và kiểm nghiệm tánh chất của mỗi dữ kiện. Do lẽ ấy, bốn sao Từ Hóa chỉ là bộ mặt mới mà thôi. Thí dụ tuổi Kỷ thì chính diệu Tham Lang có bộ mặt mới là Hóa Quyền, mà tuổi Ất thì Hóa Quyền lại là hậu thân của Thiên Lương. Nói cách khác, tùy theo thập can mà chính diệu thủ lãnh những vai trò mới như sau:

– Chủ về thi cử, phước lành: Hóa Khoa.

– Chủ về địa vị: Hóa Quyền.

– Chủ về tiền của: Hóa Lộc.

– Chủ về sự thầm lặng: Hóa Kỵ.

Thành ra khi thấy Tứ Hóa xuất hiện ở cung nào, ta nên hiểu rằng chính diệu đã biến ảo ra, nhận lãnh sứ mạng nói trên mà thôi. Nói cho cùng, thì không có sao Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Kỵ (hiểu theo nghĩa là những tinh đẩu riêng biệt) mà Tứ Hóa chỉ là sự biến thái của chính diệu tùy theo Thập can vậy.

3- Tha nhân là địa ngục

Trong vị trí tuần tự 12 cung trên bản số Từ-vi, cung Mệnh và cung Thiên Di luôn luôn đối mặt nhìn nhau. Đây là ý nghĩa thâm sâu của người sáng chế ra khoa nghiệm lý này: Mệnh là ta, Thiên Di là tha nhân (chứ không phải sự đi xa như nhiều sách đoán luận giải ). Đời sống là trường tranh đấu, ta muốn tồn tại thì phải ganh đua với chúng nhân trong xã hội, thế nên tha nhân vừa nhìn ta để học hỏi, vừa để đối phó. Ngược lại, ta nhìn tha nhân cũng với cung cách này. Điều kiện hòa đồng là cần, nhưng phải có sự khắc chế mới đủ nghĩa sống ở đời (lẽ mâu thuẫn lấy biến dịch làm căn bản nhân sinh), trong ý nghĩa Dịch động ấy, lấy luật Ngũ hành làm luận cứ cho sự tương giao của hai cung Mệnh & Di.

Vậy khi nào hành của cung Mệnh chế ngự được hành của cung Di thì người ấy mới mong ra đời được đắc thắng và kính nể, bằng trái lại, hành của cung Di áp đảo được hành của cung Mệnh thì rõ ràng là người ấy thường chịu nhiều thua thiệt trước thế nhân.

4- Cơn bỉ cực, hồi thái lai

Vòng Thái Tuế, khi còn sanh tiền cố Tử-vi gia Thiên lương đã dày công phu triển khai tầm quan trọng, để giúp cho người xem Tử vi nhận biết rõ đại vận hên xui. Đại cương cung nào chứa vòng Tam hạp của Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ thì Đại hạn mười năm tại cung đó là thời vận tốt.

Thí dụ: Mệnh tại cung Dậu, tuổi Mẹo Âm Nam, Kim Cục, thì theo chiều nghịch; cung Dậu 4-13, cung Thân 14-23, cung Mùi 24-33… Vòng Thái Tuế gác đầu 3 cung Hợi-Mão-Mùi, do đó Đại vận 10 năm từ 24-33 tuổi là lúc thịnh thời gặp nhiều may mắn của đương số. Tuy nhiên tùy theo 3 đầu cung tam hạp của Vòng Thái Tuế, nếu gặp đầu cung:

– Có sao Thái Tuế là đắc thời một cách chánh đáng.

– Có sao Quan Phù là đắc thời trong sự tính toán.

– Có sao Bạch Hổ là đắc thời trong sự làm việc thái quá vất vả.

Cho nên người xem số Tử-vi, thấy đến Đại vận nằm trong tam hợp Vòng Thái Tuế, được kể như đã tới hồi thái lai, thoải mãi. Nhưng có điểm khá cẩn trọng, nếu tiểu vận (một năm) phải đề phòng sự thiệt thòi xui rủi đưa tới:

– Tiểu vận đến cung chứa sao Thái Tuế: đáo tụng đình.

– Tiểu vận đến cung chứa sao Quan Phù: thị phi tai tiếng.

– Tiểu vận đến cung chứa sao Bạch Hổ: đau ốm tai nạn.

Tóm lại: Đại vận nằm trong tam hạp Vòng Thái Tuế là hên, may mắn (tới mức độ nào còn phụ thuộc vào nhiều các sao khác nữa!?..), nhưng 10 năm đó thì đề phòng 3 năm tiểu hạn lại lâm vào trở lại 3 cung tam hạp của Vòng Thái Tuế thì lại gặp chuyện xui rủi vậy. Đó là ý nghĩa thứ hai của hạn tam tai mà cố Tử-vi gia Thiên Lương đã dày công khám phá.

Cho nên quý vị thấy hạn Tam tai ghi trong sách:

– Tuổi Dần Ngọ Tuất: 3 năm Thân Dậu Tuất là Tam tai.

– Tuổi Thân Tý Thìn: 3 năm Dần Mão Thìn là Tam tai.

– Tuổi Tỵ Dậu Sửu: 3 năm Hợi Tý Sửu là Tam tai.

– Tuổi Hợi Mão Mùi: 3 năm Tỵ Ngọ Mùi là Tam tai.

sao lại có khi đúng có khi sai, ấy là vì lẽ trên.

5- Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong: Thế ngũ hành sinh nhập tại Tứ Sinh và Tứ Tuyệt.

Mười hai cung của bản số Tử-vi, tuy mang 12 chủ đề khác nhau nhưng chúng lại có những gắn bó kỳ lạ, nếu chịu khó luận giải luật ngũ hành của từng cung trên căn bản:

– 4 Cung Tứ Sinh: Dần, Thân, Tỵ, Hợi.

– 4 Cung Tứ Tuyệt: Tý, Ngọ, Mão, Dậu.

Ta thấy 4 cung Tứ Sinh và Tứ Tuyệt khác nhau từng đôi một:

– Cung Tỵ (Hỏa) đối lập với cung Hợi (Thủy)

– Cung Thân (Kim) đối lập với cung Dần (Mộc)

– Cung Ngọ (Hỏa) đối lập với cung Tý (Thủy)

– Cung Mão (Mộc) đối lập với cung Dậu (Kim)

Vậy khi các cung nói trên mang chủ đề gì (trong 12 chủ đề: Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Ách, Tài, Tử, Phối, Bào) thì chúng xung khắc nhau như bản chất cung của nó.

Ví dụ: Tuổi Âm Nam, Mệnh an tại Dậu, ta có:

– Tiền bạc (cung Tỵ) khắc chế với cung Phúc Đức (cung Hợi)

– Huynh Đệ (cung Thân) không hạp với bạn bè (cung Dần)

– Nhà đất (cung Tý) không hạp với hàng con cái (cung Ngọ)

– Bản Mệnh cung (cung Dậu) bất hòa đồng với tha nhân (cung Mão)

Các sự xung khắc trên là một điều loan báo đối với đương số. Để tùy nghi chọn lựa một trong hai điều: Hoặc chọn Tiền Bạc hay chọn Phúc Đức; hoặc muốn Con Cái an toàn hay muốn Nhà đất khang trang…

6- Tham thì thâm: Luật thừa trừ tính theo vòng Thái Tuế

Vòng Thái Tuế ngòai ý nghĩa cho biết thời may vận tốt của mười năm, nó còn cung cấp một đặc tính qúy báu khác, là tìm biết căn tính của mỗi người, cũng như thử thách của đương số trong sinh hoạt thường nhật. Ta nên để ý:

– Tuổi Âm Nam và Dương Nữ: trước khi tới thời kỳ 10 năm của Vòng Thái Tuế, đã gặp 10 năm của Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức.

– Tuổi Âm Nữ và Dương Nam: lại gặp Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức sau khi đã an hưởng 10 năm của Vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.

Cả hai cách trên đều cho ta thấy: Xét luật Ngũ hành thì Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức ở thế lấn so với Vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.

Thí dụ: Tuổi Tuất – Dương Nam, thì Vòng Thái Tuế là Hỏa, còn Vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức là Mộc, mà Mộc sinh Hỏa (có nghĩa là mình đang gặp tối đa thuận lợi, lấn tới lấy thời gian Mộc để dưỡng cái TA -Hỏa). Lợi thì có lợi thật, nhưng Luật thừa trừ đã xuất hiện, để ổn định cái bất công, cho nên khi ai bước vào thời kỳ này (Vòng Thiếu Dương) sẽ phải gặp sao Thiên Không ở cung với Thiếu-Dương, đó là nét thâm thúy và đầy nhân -văn, tính nhất của khoa Tử-vi: Ở đời không nên tham vọng, vì quá đáng sẽ gặp “Thiên-Không ở cuối đường hầm” (Hạn Thiên Không thì ai biết xem Tử-vi, đều rõ cái tai hại của nó).

7- Đời là bể khổ

Sao Thiên Mã là nghị lực của đời người nhưng còn biểu tượng cả chiếc xe đi của đương số. Nếu xét Ngũ hành của cung mà Thiên Mã đóng, với Ngũ hành của bản Mệnh, chúng ta sẽ thấy ngay những mối tương quan có tính cách cảnh cáo hay nhẹ cũng là báo trước về chiếc xe mà đương số sử dụng trong mưu sinh ở đường đời:

– Hành Mã khắc hành của bản Mệnh: Chết vì tai nạn xe cộ, bị thương nặng về tay chân…

– Hành Mã sinh hành của bản Mệnh: Xe cộ luôn an toàn, giúp đỡ người thật đắc dụng.

– Hành Mệnh khắc hành của Mã: Xe cộ luôn ở trạng thái hư hao, gây tốn kém cho chủ.

– Hành Mệnh sinh hành của Mã: Coi chừng mất xe.

– Hành Mã đồng hành với bản Mệnh: Bình thường trong mọi chuyện xe cộ, cũng như lúc di chuyển.

Kết hợp với những sao tại Lưu Tiểu hạn và lưu Đại hạn, từ đó mà suy luận cụ thể chi tiết ra trong từng trường hợp cụ thể của bản số Tử-vi.

Thí dụ: Người tuổi Tân Tỵ (Hành Kim). Thiên Mã đóng ở cung Hợi (Thủy). Vậy tức là Mệnh Kim sinh xuất Mã Thủy, ít nhất trong đời phải mất xe một lần (dù là xe gì… đi nữa, kể cả trường hợp mình đi mượn xe của người khác nữa!?… Các bạn thử chiêm nghiệm xem…). Người Nhâm Ngọ (Mộc) có Thiên Mã đóng cung Thân thì nên cẩn thận lắm vì Mã Kim khắc Mệnh Mộc. Vai trò của sao Thiên Mã xét theo khía cảnh này, đã được nhiều người kiểm chứng, thấy hiệu nghiệm rõ ràng.

8- Chung thân đối kháng

Sao Thiên Tài trong Tử-vi quả là có vai trò độc đáo, nó luôn luôn làm điều trái ngược lại tinh thần của cung mà nó đóng. Sao Thiên Tài ví như vị Thiên Sứ có nhiệm vụ đảo ngược tình hình ở cung mà Thiên Tài phải hiện diện: nhiều sao đẹp mà gặp Thiên Tài (đồng cung) thì kể như vô dụng, mà nhiều sao xấu gặp Thiên Tài hóa ra đắc dụng. Đắc biệt những cung tiềm ẩn tính cách lượng số (như cung Huynh Đệ, Tử-Tức, Tài Bạch) thì sự hiệu nghiệm nói trên của Thiên Tài quả không sai lệch. Thành ra, điều kết luận về sao này, ta phải nhìn nhận quả là “Thiên Tài” hiếm có vậy.

9- Bản tính nhân chi sơ

Khoa Tử-vi Đẩu số, ngoài việc tiên tri các điều công danh, thọ yểu, giàu nghèo… của mỗi con người, nó còn là khoa tâm lý thực nghiệm khá chính xác. Quý vị thích nghiên cứu trong tinh thần triết học, hãy để ý sự kiện (Đã được nghiệm lý) sau đây: Áp dụng luật tính âm-dương cho bản mệnh với cung Mệnh là:

– Người Âm đóng cung Âm: thế lưỡng Âm nên thái quá nhu nhược, rất thâm trầm, khôn ngoan…

– Người Dương đóng cung Dương: thế lưỡng Dương nên quá cương, rất nóng nảy đến độ hồ đồ võ phu…

– Ngừơi Dương đóng cung Âm: có thực nhưng kín đáo nhún nhừơng, biết mình, biết người…

– Ngừoi Âm đóng cung Dương: người sống giả tạo, nhiệt tình vay mượn…

Ví dụ: Người Quý Mùi (Mệnh Âm) Cung Mệnh đóng tại Dần (Cung Dương), nên chưa xét đoán chi tiết, ta có ngay một ý niệm là người không có bản lãnh, biết ít mà phô trương thì nhiều, sống tạm bợ với nhiệt tình vay mượn…

10- Thời thế tạo Anh-hùng

Tiểu hạn mỗi năm được xác định tại một cung. Người xem Tử-vi hay có thói quen lấy cung tam Hợp và cung Nhị hợp với cung lưu niên, để giải đoán vận hạn hên xui của một năm (giống như cách xem đại hạn 10 năm). Thật ra muốn tìm hiểu thời kỳ đại hạn là hay hoặc dở ta chỉ nên luận giải về vòng Thái tuế, còn tiểu hạn một năm phải bám sát các Sao ngụ trong cung lưu niên. Một năm cũng có thời kỳ riêng của mỗi hành trong Ngũ hành:

  • 2 tháng rưỡi đầu mùa Xuân: hành Mộc
  • 2 tháng rưỡi đầu mùa Hè: hành Hỏa
  • 2 tháng rưỡi đầu mùa Thu: hành Kim
  • 2 tháng rưỡi đầu mùa Đông: hành Thủy
  • 15 ngày cuối mỗi mùa: hành Thổ.

Rồi từ căn bản này, ta đối chiếu với các hành của sao trong cung lưu niên muốn xem, và phải để ý đến tính chất: sao thuộc hành nào sẽ hoạt động (giống như phiên trực của quân đội) vào thời gian của hành ấy (chứ không thể có sự hoạt động nhất loại của các sao trong suốt năm mà người đời thường chọn ngày cúng sao hạn là vì vậy).

Thí dụ: Người Mệnh Thổ, lưu niên tại cung Tý có các sao:

  • Hành Mộc: Đào Hoa, Ân Quang, Hóa Quyền.
  • Hành Hỏa: Thiên Khôi, Thiên Đức, Địa Kiếp, Phi Liêm.
  • Hành Thổ: Phúc Đức, Tuyệt, Thiên Tài, Tả Phù.
  • Hành Kim:Thiên Khôi (đới Kim), Tả Phù (đới Kim), Hồng Loan (đới Kim).
  • Hành Thủy: Tham Lang, Hồng Loan.

Ta giải đáp dễ dàng niên hạn của đương số như sau:

  • Mùa Xuân: Có quý nhân giúp đỡ, thăng tiến công danh rất mau.
  • Mùa Hè: May rủi liền nhau, càng cao danh vọng càng dày gian nan.
  • Mùa Thu: Trở lại sự bình yên, có bằng hữu thuận thảo.
  • Mùa Đông: Tình cảm thoải mái, yên vui…
  • Riêng 15 ngày cuối mỗi mùa (Thổ) gặp các sao Phúc Đức, Tuyệt, Thiên Tài, Tả Phù nên hay có chuyện lo nghĩ, nhờ Thiên Tài hóa giải nhóm hung tinh: Tuyệt và Tả Phù… thành ra cũng qua khỏi vào phút chót.

Khi áp dụng luật Ngũ Hành cho sao theo mùa, ta không nên quên so sánh Ngũ Hành của sao với Ngũ Hành của Cung, để thấy rõ hơn cường độ hoạt động của các Sao bị ảnh hưởng như thế nào trong mùa của nó.

Qua ví dụ nêu trên: Cung Tý là Thủy, đương nhiên các sao Mộc tăng cường lực, các sao Kim bị suy nhược, các sao Thổ bị trở ngại và các sao Thủy khởi sắc nhất (giống như: Giang san nào anh hùng nấy – Rừng nào Cọp ấy).

Tóm lại, bài viết này không ngoài mục đích muốn cống hiến người hâm mộ Tử-vi một vài quan điểm mới, để cùng nhau soi sáng một khoa học cổ điển (vốn bị hiểu lầm là lạc hậu, thoái hóa) có giá trị cao độ của ngành nghiệm lý xã hội.

(Trích từ Báo KHHB của GS Lê Trung Hưng)

Bình luận