Các phương pháp luận mệnh toàn diện

22/08/2022 949

Theo chuyên gia bát tự Thiên Nguyên thuộc nhóm nghiên cứu Huyền Học Việt Nam. Con người có Tam Mệnh: Thiên mệnh, Địa mệnh, Nhân mệnh; Bát tự cũng có 3 điểm thiết nhập lớn là: Nguyệt lệnh, Nhật can, Thế cục; cả đời cũng có đảm nhận 3 bộ phận sự kiện lớn: Cá […]

Theo chuyên gia bát tự Thiên Nguyên thuộc nhóm nghiên cứu Huyền Học Việt Nam. Con người có Tam Mệnh: Thiên mệnh, Địa mệnh, Nhân mệnh; Bát tự cũng có 3 điểm thiết nhập lớn là: Nguyệt lệnh, Nhật can, Thế cục; cả đời cũng có đảm nhận 3 bộ phận sự kiện lớn: Cá thể, Cục bộ, Chỉnh thể hoặc là khởi đầu, quá trình và kết quả. Trong bài viết này chúng ta đi vào phân tích các phương pháp luận mệnh toàn diện

Từ bất cứ điểm thiết nhập nào vào trong bát tự, nếu nắm vững bất cứ một bộ phận sự kiện nào trong cuộc đời, nắm chắc một mệnh nào ở trong tam mệnh, đều có thể luận mệnh được, đồng thời có đủ dự trắc được rất nhiều sự tình trong cuộc đời, nhưng chỗ có được chỉ là một bộ phận mà không phải toàn bộ cuộc đời. Duy chỉ có kết hợp lại cả ba, mới có đủ hoàn chỉnh quá trình cuộc đời. Đây chính là kết hợp cả 3 bộ phận Cá thể, Cục bộ và Chỉnh thể, cũng chính là cách thức luận mệnh dung hợp toàn diện Thiên mệnh, Địa mệnh, Nhân mệnh.

Các phương pháp luận mệnh toàn diện

+ Cá thể là Nhân mệnh, lấy Nhật can làm trung tâm, xem hình thể tướng mạo, tính cách, sức khỏe tật bệnh, năng lực tài hoa, thu nhập kinh tế, quan hệ nhân sự, cùng tình huống cơ bản nhất cuộc đời của một con người.

+ Cục bộ là Địa mệnh, lấy thế cục hoặc là tổ hợp hoặc là cung vị làm trung tâm, xem từng tình huống phương diện nhân sự cùng cát hung của một con người, như lục thân, gia đình, sự nghiệp, mỗi một giai đoạn cuộc đời, còn có thể xem được chủ tượng cả đời người cùng ảnh hưởng lớn nhất đối với con người cùng sự vật trong cuộc đời con người.

+ Chỉnh thể là Thiên mệnh, lấy Nguyệt lệnh làm trung tâm, định vị kết quả phú quý bần tiện, thọ yểu cát hung một con người.

Thiên Địa Nhân hợp nhất gọi tắt là Thiên Nhân hợp nhất, là xem khởi đầu, quá trình và kết quả hoàn chỉnh cả đời một con người. Cả ba phương pháp đối ứng nhau chúng ta cũng đã quen thuộc, cụ thể có phép cân bằng vượng suy hoặc gọi là phép Trung hòa, phép Tự bính Tự, Cách Cục pháp, Thái Cực pháp.

1. Các phương pháp luận mệnh tổng thể: Hình pháp và Khí pháp

Chúng ta đã nắm hệ thống phương pháp luận mệnh, tiếp theo là cần phải làm kết hợp toàn diện luận mệnh, cũng chính là đi luận toàn diện vận mệnh một con người. Không chỉ là bản thân, cũng chính là tất cả mọi chuyên mục còn có lục thân, hôn nhân, con cái. Nguyên lý đều là cùng một cách thức. Vì vậy, chỉ cần sẽ luận bản thân, thì cũng sẽ luận lục thân. Trái lại, sẽ không luận bản thân, không có thể sẽ luận lục thân, tối đa chỉ có thể luận từng một phương diện lục thân.

Phương pháp chung luận mệnh có 2 đại pháp môn: Hình pháp và Khí pháp. Mọi người suy nghĩ một chút, nhằm vào vận mệnh một con người mà nói, Hình pháp luận cái gì, Khí pháp luận cái gì? Luận bản thân là như vậy, luận lục thân cũng là luận như vậy, luận bất cứ một sự tình nào đều là đi luận như vậy, nhất định phải phân Hình và Khí.

Hình và Khí, mọi người suy nghĩ thâm nhập một chút, cuối cùng là nói nội dung phương diện nào của cuộc đời? Hình pháp bao gồm những phương pháp nào? Là luận phương diện nội dung nào của cuộc đời? Khí pháp bao gồm những phương pháp nào? Là luận phương diện nội dung nào của cuộc đời? Bát tự, Phong Thủy, Kỳ Môn, Lục Hào đều là như nhau, là kết hợp toàn bộ Hình pháp và Khí pháp.

Học tập mệnh lý mọi người nhất định phải có chuẩn bị tư tưởng, nó không phải là thuật số giang hồ và mê tín dị đoan, mà là một môn học hết sức thâm thúy, không nên giống như trước đây, trở lại nghèo túng mà học toán mệnh, không có văn hóa, không có lợi lộc, vì lăn lộn kiếm ăn mà đi học toán mệnh, đã tốt hơn so với trước đây đã từng thất vọng cuộc sống mà xuất gia làm tăng làm ni, như vậy thì đem mệnh học làm thành thuật giang hồ lừa dối, đem Phật học làm thành quỷ thần mê tín. Mệnh học chân chính là học âm dương cao thâm, không có thể đễ dàng học thuật như vậy, không có bao quát, cũng không thể có một bước là xong, giải quyết trong chốc lát là được.

Khẳng định phải nắm hiểu rõ những nội dung này, mới có thể nắm thật tốt, như vậy mới có thể trở thành một tiên sinh toán mệnh thông thường, mà là làm thần sắp xếp trù tính cả đời người, là người có bản lĩnh thật sự. Vì vậy hiện tại chúng ta muốn có trình độ, bản thân phải có trình độ. Nếu như lúc nào cũng nghĩ từng bước đúng hạn, mua tuyệt chiêu thì có thể thành danh thành gia, vậy thì không nên lãng phí sinh mệnh.

Mệnh lý từ xưa đến nay, đa số người đều tách rời khỏi chính đạo, đến cuối cùng không chỉ có trên xã hội không tin tưởng thuật toán mệnh, bị nói thành là mê tín phong kiến, đồng thời mặc dù mọi người đều tin tưởng toán mệnh, nhưng đều là chỉ có đại sư ở trong truyền thuyết, khi nhìn đến đều nói là mê tín phong kiến. Ngay cả chúng ta cũng không tin ai mới chân chính là người toán mệnh, đều là một chút ngoài da, ý là nói không có cao thủ, cao thủ chỉ có ở trong truyền thuyết mà thôi.

Bởi vì trước tiên tư tưởng nhận thức con người không có đi lên, đem mệnh học coi như là phương pháp đơn giản, hỗn lại làm một để đi kiếm tiền, nào có dễ dàng như vậy? Mà thực tế không phải là như vậy, mệnh học là một môn học rất hoàn chỉnh.

Khí định đại cục, định vị phú quý bần tiện, thọ yểu cát hung cả đời. Chỗ nói Khí chính là trời đất, là nói khí âm và khí dương, mà âm dương chính là trời đất. Vì vậy, Khí pháp chủ yếu định vị tầng lớp đời người, tầng lớp đời người chính là phú quý bần tiện, thọ yểu cát hung, tài phú, địa vị, thọ mệnh, là có cát hung lớn hay không. Khí pháp chính là 2 loại phương pháp Thái Cực pháp và Cách Cục pháp, là nói chỉnh thể, là nói chủ khí của trời đất.

1.1  Hình pháp

Hình pháp cũng có 2 loại phương pháp, bởi vì bất kể là Hình pháp hay là Khí pháp đều phân làm Tiên thiên và Hậu thiên, hoặc là nói thuộc tính tự nhiên và thuộc tính xã hội, trước đây là lấy ngũ hành làm điểm thiết nhập, sau này là lấy thập thần làm điểm thiết nhập.

Hình pháp chính là Tượng pháp, mặt Tượng pháp rất rộng. Còn Khí pháp luận mệnh rất đơn giản, chính là chỗ chúng ta truyền bá Cách Cục pháp và Thái Cực pháp. Mấy năm nay giảng trọng điểm là Khí pháp, cũng truyền thụ Hình pháp. Khí pháp từ xưa đến nay đều có, chỉ là lấy chỗ thầy truyền lại làm chủ, nhưng mà không thành hệ thống, không có phương pháp toàn diện. Hình pháp chúng ta đều cũng có học, mấy năm nay học đều là Hình pháp, Hình pháp là thủ Tượng, chỉ luận ngoài da rất là cơ sở, nhưng có thể luận rất nhiều sự tình, thông thường thì không đủ toán mệnh.

Hình pháp chẳng qua cũng là giảng Tiên thiên và Hậu thiên, Tiên thiên chính là ngũ hành, giảng thuộc tính tự nhiên, Hậu thiên là thập thần, giảng thuộc tính xã hội. Phương pháp chủ yếu chúng ta giảng là 2 loại, hạt nhân Hình pháp là thập can “Tự bính Tự”. Trên xã hội vẫn không có giảng giải thập can chi tiết, xuất hiện đều là phép Thập Thần luận mệnh. Phép Thập Thần tôi đã nói trước đây cả gần 20 năm, hiện tại không truyền thụ nữa, ở đây nói cũng không nhiều. Nhưng cũng thủy chung vẫn nói, lúc đầu là truyền lại Tài Quan pháp, chủ yếu là luận phú quý bần tiện, sau đó nói sâu chỗ phép trung hòa Thập Thần, không chỉ là phú quý bần tiện, bao gồm cả quan hệ nhân sự, công việc chức nghiệp đều có thể luận, đây chính là phép trung hòa Thập Thần.

Đi lý giải một chút Thập can “Tự bính Tự” với mọi người, thực tế cũng là phép trung hòa. Vì vậy, Hình pháp cũng có thể nói là Phép trung hòa Thập thần và Phép trung hòa thập can. Phép trung hòa thập can bao gồm cả phép cân bằng vượng suy cùng phép “Tự bính Tự”, lấy trung hòa là cát, chính là cân bằng vượng suy, cân bằng vượng suy ngoại hình và nội khí. Ngoại hình là cân bằng lực lượng vượng suy, Nội khí là cân bằng vượng suy khí âm dương. Khí âm dương cùng thân vượng thân nhược giống nhau, vượng thì phải ức chế tức là khắc tiết hao, còn nhược thì phải sinh phù, ngoại hình và nội khí là xem như nhau.

Vì vậy phương pháp cụ thể có 4 loại, trên thực tế là 2 loại. Bởi vì suy xét thuộc tính xã hội và thuộc tính tự nhiên, nhất định là 4 loại. Phương pháp lớn là 2 loại, tức là Hình pháp và Khí pháp.

Hình pháp xem hình thể con người, Hình pháp trước tiên là xem 2 bộ phận nội dung lớn cả đời, một là xem tình huống dự trắc mục tiêu bản thể, nếu như xem một con người, trước tiên xem nhật can là dạng người nào. Nếu như đoán hôn nhân, bề ngoài là xem hôn nhân dạng nào, khẳng định là có bản thể (bộ phận chủ chốt). Nều như đoán tài vận, trước tiên đại biểu bản thể tài vận trong bát tự ra làm sao, tiên thiên đại biểu tài vận trước tiên là phải xem kim, kim đại biểu thu nhập của công việc, nếu như kim trong bát tự tử tuyệt, rất nhược, nhược lại không có Thái Cực, Cách Cục, thì không nên xem, người này kiếm tiền rất khó khăn, tại sao? Bởi vì không có bản thể, lúc này phải xem Hậu thiên bổ cứu, kim tử tuyệt, nếu như có bổ cứu, thu nhập cũng sẽ không thấp. Kim tử tuyệt thì sợ hỏa khắc, lúc này nếu có thủy đại biểu sự nghiệp, thủy khắc hỏa cứu kim, thuyết minh người này thu nhập không ổn định, khả năng thường trải qua vài tháng không có thu nhập, nhưng mà có sự nghiệp, làm thành một hạng mục, thì có thể được rất nhiều tài, chính là người làm ông chủ hoặc làm thị trường.

Vì thế, nắm cơ sở đều học tốt, tiếp theo chính là chỉnh lý. Đừng tưởng rằng học toán mệnh nhiều đơn hạng như vậy, học hết các hạng mục hôn nhân, tử nữ, lục thân, công việc nghề nghiệp sao? Thực tế không phải là như vậy, chỉ cần học tập một hạng là được, nguyên lý đều là như nhau, nhưng một hạng này tất cần phải học thông suốt, lý giải đầy đủ, nếu không thì không được.

Tính chất tự nhiên của Kim chính là vật chất cùng tiền bạc, nếu như Tiên thiên xem tài vận, công việc, thu nhập tiền lương chính là xem kim. Còn thủy không phải là thu nhập tiền lương, thủy đại biểu tài nguyên, quy mô, thị trường, địa bàn rất lớn, đây là xem Tiên thiên.

Công việc sự nghiệp, thu nhập kinh tế, Hậu thiên là phải xem Tài tinh. Nếu như một bát tự dụng phép thập thần xem, Tài tinh tử tuyệt, người này không có thu nhập ổn định, nhưng không nhất định là nghèo, nếu như Quan tinh vượng mà đắc dụng, khả năng bản thân người này làm ông chủ, mở công ti, cửa hàng, tính thông thường là mấy tháng không có thu nhập, nhưng mà có sự nghiệp, cũng sẽ không nghèo.

Xem quan hệ tình cảm cùng người khác giới cũng như vậy, nam tính lấy Chính Tài làm vợ, cùng vợ có quan hệ như thế nào, cũng phải xem Tài tinh. Có vài người xem hôn nhân rất ổn định, không ly hôn, nhưng mà quan hệ vợ chồng rất xấu.

Xem duyên phận cùng người khác giới cũng như vậy, xem người khác giới là ngoại giới, dụng kim thủy đại biểu, nếu như một bát tự có mộc hỏa thổ rất vượng, kim thủy tử tuyệt, thì duyên khác giới rất kém. Còn có một vài người duyên khác giới đặc biệt tốt, rất nhiều tình nhân, khẳng định là có kim thủy vượng, lại có hỏa thổ, như đoán ngữ “Kim đa kim vượng có hỏa khắc là nhiều tình nhân” .

Trước tiên phải định vị, định vị đúng, cái gì cũng đều có thể xem được. Xem định vị Tiên thiên, ví dụ như phương diện tình cảm hôn nhân, có vài người có tính khí rất kém, lại là lưu manh côn đồ trên xã hội, nhưng duyên với nữ nhân thì là đặc biệt tốt. Tính khí xấu, là côn đồ trên xã hội, chính là thập thần rất xấu, lấy hung thần làm chủ đạo, thậm chí Tài tinh hỗn loạn, hoặc là có một khối, hoặc là bị tử tuyệt. Nhưng mà trời sinh có duyên với nữ nhân là rất tốt. Chỗ này phải xem Tiên thiên, khẳng định bát tự có kim thủy vượng, có chút có thể khống chế được, nhưng lại khống chế không hết, chính là người khác giới qua qua lại lại đặc biệt nhiều.

Còn có vài người xem từ Thập Thần, Chính Tài Chính Ấn, quan hệ xã hội rất tốt, người rất thành thực, rất thực tế, nhưng chính là tìm không ra đối tượng, bởi vì trong bát tự có kim thủy tử tuyệt, làm sao mà tìm chứ?

Vì thế, những nội dung này đều ở trong cơ sở, chỗ này gọi là thủ tượng. Thủ tượng là Hình pháp, phân ra làm Tài Quan pháp và thập can “Tự bính Tự”. Trước tiên phải biết bản tượng thập thần và thập can, bởi vì thủ tượng phải xem mục tiêu bản thể, phải lấy cái gì làm trung tâm, lấy ngũ hành hoặc thập thần nào làm trung tâm. Xem mệnh chủ yếu lấy ngũ hành nhật can làm trung tâm để xem, nhật can là loại vật dạng nào. Góc độ Thập thần xem tình cảm hôn nhân, tình cảm khác giới lấy Tài tinh làm trung tâm. Sự nghiệp lấy Quan Sát làm trung tâm.

Tiên thiên lấy ngũ hành để định vị, như địa bàn, thực lực trên xã hội của một người, quy mô thì phải xem thủy. Đây là Hình pháp, trước tiên chính là định vị mục tiêu, nhật chủ lấy nhật can để định vị, lục thân lấy cung vị ngũ hành để định vị.

Hậu thiên xem quan hệ xã hội cùng quan hệ lục thân lấy thập thần để định vị, cùng quan hệ mẫu thân xem Ấn tinh, cùng quan hệ lĩnh đạo xem Quan tinh.

Trước tiên là phải biết mục tiêu bản thể, vì vậy trước tiên phải biết bản tượng của thập can và thập thần. Sau khi biết bản tượng, lại xem “Tự bính Tự”. Chỗ này thì có Phép trung hòa Thập Thần, cũng chính là “Tự bính Tự”. Như xem quan hệ giữa nhật can cùng Tài tinh, nếu dùng Phép trung hòa Thập Thần, hoặc gọi là Phép Tài Quan, xem độ trung hòa giữa Nhật can cùng Tài tinh, xem nhật can cùng Tài tinh va chạm nhau như thế nào là được. Nhật can không vượng, mà Tài tinh rất vượng, hơn nữa Tài lại sinh Quan hợp với nhật chủ, quan hệ giữa nhật chủ và Tài tinh lại mất cân bằng, đoán thẳng là sợ vợ. Nhật can không vượng cũng không nhược, nhưng Tài tinh vượng hơn rất xa so với nhật can, chính là sợ vợ, công việc gian khổ. Nhật can không vượng cũng không nhược, hoặc thiên một chút vượng, thiên một chút nhược đều không có việc gì, nhưng Tài tinh tử tuyệt rất nhược, lại có Tỉ kiên Kiếp tài, như vậy quan hệ giữa vợ chồng là đối lập, bản thân vượng, đối phương lại yểu nhược, dễ dàng lấy cường bắt nạt nhược mà xảy ra chuyện.

Đây chính là phép “Tự bính Tự” (chữ va chạm chữ), bất kể Phép trung hòa hay là phép Thập can “Tự bính Tự” thực tế đều là phép trung hòa, đều phải nói là sau khi va chạm nhau, lấy trung hòa để định cát hung hay không, xem các phương diện nhân sự cùng cát hung đời người, hoặc là nói xem tất cả từng hạng mục cuộc đời tức là một phương diện nào đó về nhân sự cùng cát hung, đây chính là thủ tượng. Vì thế thủ tượng chính là 2 nội dung lớn, một là phải xem bản tượng cá thể như thế nào, là định vị con người sự vật dạng nào. Nếu như lấy thập can để luận, là loại vật như thế nào, lấy thập thần để luận, là bản thân con người sự vật như thế nào. Sau đó mới đi Tự bính Tự, sau khi Tự bính Tự thì tất cả nhân sự và cát hung đều toàn bộ xuất hiện. Cát hung của nó rất đơn giản, đó là trung hòa. Chỗ nói trung hòa chính là cân bằng vượng suy. Vì vậy, tượng phép cân bằng vượng suy là xu hướng chính trên xã hội hiện tại, có thể đoán ra rất nhiều sự tình. Bản tượng quan hệ nhân sự và nhân sự cát hung cơ bản đều có thể xem, cân bằng vượng suy là tốt. Xem Tài vận, Quan vận, thân vượng Tài vượng, Quan vượng cân bằng khẳng định là có địa vị xã hội.

Thập can cũng là một dạng nói cân bằng, nhật can là Nhâm Quý thủy, ở mùa đông âm thủy vượng, nếu muốn có thành tựu, tổ hợp như thế nào tất có tiểu thành tựu nhất định? Nhưng không phải là đại thành tựu, Hình Pháp không xem đại thành tựu, bởi vì Hình pháp xem cá thể và cục bộ, chứ không xem chỉnh thể.

Nhật can Nhâm thủy ở nguyệt lệnh vượng, thấy chữ gì tất có thành tựu? Khiến cho Nhâm thủy cân bằng thì có thành tựu. Thập thần là cân bằng vượng suy, thập can làm sao cân bằng chứ? Đó chính là “Tự bính Tự”. Nhâm thủy thấy đến chữ gì tất có tiểu hảo sự, tiểu thành tựu cả đời chứ?

Nhâm thủy thấy Mậu thổ, có thể làm ông chủ. Thủy hỏa đại biểu phú và quý, thủy đại biểu phú, hỏa đại biểu quý, trực tiếp cân bằng âm dương, thì trực tiếp có phú quý, cá nhân này khẳng định là một ông chủ hoặc là một lãnh đạo. Bởi vì Nhâm thủy là Lão Âm, nhất định phải dụng Lão Dương. Lão Dương là hỏa, hỏa thổ là đồng gia (cùng nhà), Mậu thổ là hóa thân của Bính hỏa, là bí thư, cũng là đại biểu Bính hỏa, người này khẳng định là một ông chủ, nhân viên quản lý, lão đại.

Nhâm thủy thấy Giáp mộc cũng có thể có một chút cân bằng nhỏ, nhưng thành tựu sẽ nhỏ. Nhâm thủy là một Lão Âm, lại ở mùa đông, xem từ vượng suy, Nhâm thủy thân vượng, là âm thái vượng, làm cho âm giảm nhược thì có chuyện tốt. Làm cho âm giảm nhược là Giáp mộc, Giáp mộc có thể hóa âm, Giáp mộc là từ Lão Âm mà ra, vì vậy cá nhân này tất có thành tựu nhỏ. Thông thường đều có học vấn, hoặc là có kỹ thuật, người rất thông minh, thậm chí là một thiên tài.

Cân bằng Nhâm thủy dụng Mậu thổ hoặc Giáp mộc là tốt nhất, âm vượng nhất định phải có dương đi cân bằng, dương càng vượng cân bằng càng nhiều, nhận được càng nhiều. Dụng Mậu thổ rất lợi hại, Giáp mộc là Thiếu Dương vượng, có thể có đủ chút cân bằng. Còn Ất mộc là Thiếu Dương nhược, khí dương quá ít, chỉ có một chút rất ít dương, chỉ có thể cân bằng một chút điểm âm, khả năng có chút thủ nghệ, là một người thủ nghệ, nhưng thân thể không tốt, khẳng định là thanh bần, rất gian khổ. Bởi vì thủy đại biểu gian khổ, bị hóa một chút chút, nó vẫn là gian khổ, bần hàn, đây chính là cân bằng. Nhưng cần chú ý, bên trên là nói nhằm vào cá thể cân bằng, là dùng thủ tượng, không phải là dùng để định vị chỉnh thể cả đời, ví dụ như mùa đông Nhâm thủy thấy Giáp mộc, Giáp không khắc thổ, khẳng định ở phương diện học nghiệp, kỹ thuật, đơn vị có hỉ, nhưng từ chỉnh thể nhân sinh mà nói, vẫn là thanh bần cô độc.

1.1.1 Phép trung hòa Thập Thần

Phương pháp Hình pháp có 2 loại: Một loại là Phép trung hòa Thập Thần, mới bắt đầu chỉ xem Tài Quan chính là Tài Quan pháp, hiện tại được kéo dài thêm, trên thực tế sẽ xem Tài Quan, kéo dài thêm một chút là cái gì đều cũng có thể xem, bao gồm cả quan hệ nhân sự, quan hệ xã hội, nghề nghiệp công việc, thu nhập …

Tài Quan pháp chính là xem độ trung hòa của nhật can và Tài Quan, cùng nhật can trung hòa tất có phú quý, Tài tinh có công việc thu nhập, Quan tinh có chức vụ hoặc là địa vị xã hội. Kéo dài thêm một chút, nhật can cùng những thập thần khác cũng là như vậy.

–  Quan hệ giữa nhật can cùng Thất Sát:

Nhật can cùng Thất Sát rất có tình, Thất Sát có chế biến thành Thiên Quan, Thiên Quan là Quan, tất có sự nghiệp. Thất Sát và nhật can trời sinh là vô tình, Thất Sát nhất định phải chế hóa mới ó thể cùng nhật can có tình, hoặc là Thực thần chế Sát, hoặc là Sát Ấn tương sinh. Cùng Thất Sát vô tình, từ góc độ quan hệ xã hội mà nói thì người này ở trong xã hội có áp lực rất lớn, hoặc là hoàn cảnh rất ác liệt, hoặc tham gia nghề nghiệp rất nguy hiểm, hoặc là nhiều tiểu nhân nói chung là bị bắt nạt, hoặc là bần cùng khổ nạn. Nếu như nhật can là dương, mà can chi Thất Sát là âm, thì là âm vượng tổn thương dương, tất nhiên xung quanh cả một khối là tiểu nhân, là làm quan hệ nhân sự không tốt. Tiểu nhân nhiều như vậy, nói nó làm sao mà làm quan hệ nhân sự chứ? Khả năng bản thân của nó cũng trở thành kẻ tiểu nhân. Nếu như nhật can cùng can chi Thất Sát cơ bản là cân bằng âm dương, như vậy nghề nghiệp là không tệ chẳng qua là hơi nguy hiểm như nghề công an kiểm sát tòa án giống như bác sỹ phụ thuộc vào con dao vậy.

– Quan hệ giữa Nhật can và Kiêu thần:

Kiêu thần có chế hóa biến thành Thiên Ấn. Tại sao gọi là Kiêu thần chứ? Nhật can nhược năng lực được sinh kém thì Thiên Ấn biến thành Kiêu thần, hoặc là Thiên Ấn đi đoạt Thực thì là Kiêu thần. Nếu như là Kiêu thần chân chính mà không phải Thiên Ấn, nhật chủ tất có bệnh mãn tính, rất dễ dàng thất nghiệp, bị người lừa gạt, bởi vì Kiêu thần đoạt Thực thì không có miếng ăn, cho nên sẽ thất nghiệp. Từ góc độ Thập Thần mà nói, xuất hiện Thực thần đại biểu người phóng thích, có thể ăn uống, nhưng Kiêu thần đoạt Thực, thì làm sao người được phóng thích, không có ăn uống, đoạt mất chén cơm.

1.1.2 Thập can Tự bính Tự

Hình pháp còn giảng thập can “Tự bính Tự”, lấy bản tượng làm tiền đề, khẳng định phải biết bản tượng thập can, vì vậy bản tượng thập can giảng hết sức nhiều nội dung, sau đó là tượng kết quả thập can “Tự bính Tự”, hai loại phương pháp này đều nói xong.

Nội dung Hình pháp chủ yếu bao gồm: Bản tượng Thập thần, bản tượng thập can, sau khí có bản tượng, khiến cho chúng nó phát sinh tác dụng, chính là phép “Tự bính Tự”. Thập thần cũng phải nói va chạm nhau, khẳng định phải nói đến tổ hợp. Tổ hợp chính là va chạm nhau. Thập can cũng phải nói tổ hợp, đều là có va chạm nhau. Sau khi va chạm nhau mới sẽ xuất hiện kết quả giữa âm dương là hòa hợp hay là chinh chiến. Giữa âm dương hòa hợp tất có chuyện tốt, giữa âm dương chinh chiến tất có tai họa.

Nếu như phải xem nhật can và những thập thần này, quan hệ thập can hoặc là cát hung, thì xem nhật can và bọn nó có trung hòa hay không là được. Nhật can và Tài tinh trung hòa, khẳng định có chỗ Tài tinh đại biểu chuyện tốt về phương diện nhân sự thuộc tính xã hội. Tài tinh đại biểu đệ nhất là vật chất, kéo dài ra là thu nhập tiền lương, công tác, cũng đại biểu tình cảm.

Thập thần lấy trung hòa để định cát hung, trung hòa khẳng định là có chuyện tốt. Thiên lệch ra khỏi định luật 2/8, tức là thái vượng thái nhược, chinh chiến thì tất có tai họa, tức là tai họa phương diện quan hệ nhân sự.

Thập can cũng là như vậy, thông qua Tự bính Tự, trước tiên định ra một chủ thể, chữ nào đi chạm vào chữ nào. Chữ bị va chạm, sau khi va chạm cũng nói đến âm dương hòa hợp, cụ thể thể hiện gọi là cân bằng vượng suy. Phân ra làm cân bằng vượng suy ngoại hình và cân bằng vượng suy nội khí. Mà cân bằng vượng suy không bằng cân bằng âm dương, cân bằng âm dương là xem chỉnh thể, cân bằng vượng suy là nói một chữ nào đó cân bằng ngoại hình và nội khí, Ngoại hình là nói cường nhược, Nội khí là nói khí âm dương vượng suy.

Như Nhâm thủy khí âm rất vượng, làm cho nó cần bằng hoàn toàn, thì có thành tựu và phú quý khá lớn, chính là thấy Mậu thổ, cân bằng nội khí, cùng cân bằng ngoại hình. Làm cho Nhâm thủy cân bằng nhỏ chính là thấy Giáp mộc, khẳng định là có tài hoa, hoặc là có học vấn, hoặc là có đơn vị, bởi vì Giáp mộc đại biểu đơn vị. Vạn sự vạn vật đều có thể đối ứng với thập can, nếu như Giáp mộc là đơn vị, Bính hỏa chính là lãnh đạo, thủy hỏa đều là lãnh đạo. Vì vậy phải nắm thập can xem linh hoạt, có thể đối ứng rất nhiều loại.

1.1.3 Phân biệt Thiếu Âm Thiếu Dương cùng Lão Âm Lão Dương

Giáp mộc chỉ là đại biểu nhân sự, Thiếu Âm Thiếu Dương đều đại biểu nhân sự, dạng người nào, dạng đơn vị, cơ quan nào. Còn thủy hỏa chủ yếu đại biểu thành tựu, nhân sự cũng chỉ đại sự bề trên, thủy chủ phú, hỏa chủ quý. Thủy hỏa là lão đại, chính là kết quả. Thiếu Âm Thiếu Dương chính là quá trình, dạng người nào, dạng sự tình nào, đây chính là quá trình.

Vì vậy Hình pháp có tổ hợp là thủy vượng thấy thổ, tất là ông chủ, hoặc là nhân viên quản lý, hoặc là lãnh đạo. Nhưng mà mộc vượng gặp đến kim, nếu như nói không liên quan đến thủy hỏa Mậu chỉ theo kim mộc Hình để xem, sẽ không phải là ông chủ, tuy khẳng định là có chuyện tốt, nhưng sẽ không phải là kết quả. Mà kết quả là thành bại, danh lợi thành bại. Kim và mộc không phải là lão đại, sẽ không là kết quả.

Vì vậy đây chính là thủ tượng, kim khắc mộc chủ sự tình gì, thủy vượng kiến thổ chủ sự tình gì, hỏa vượng kiến thủy chủ sự tình gì. Lão Âm Lão Dương thành, tất có thành tựu lớn, trực tiếp chính là kết quả. Nhưng mà kim khắc mộc, mộc khắc thổ khẳng định không phải là phú quý, kết quả trực tiếp thành bại, tức chính là kết quả cũng là gián tiếp, thông qua những sự tình này nhận được phú quý, mà kết quả trực tiếp nhất không phải là chỗ này.

Mộc vượng thấy đến kim khẳng định là có chuyện tốt, đại biểu sự tình gì? Hoặc là thổ vượng thấy đến mộc cân bằng, khẳng định có chuyện tốt, nhưng nhất định sẽ không phải là thủy và hỏa trực tiếp danh lợi thành tựu, đây chính là thủ tượng. Mộc vượng gặp đến kim, chuyện tốt là định cách. Bất kể là bát tự nào, đại thể là không chạy thoát được, khẳng định là có quy luật, nếu không bát tự nhiều như vậy làm sao mà học tập?

Nếu như thủy vượng thấy đến thổ, người này chính là ông chủ, có thể phát tài, bởi vì thủy chính là kết quả tài phú. Hỏa vượng thấy đến thủy, người này làm làm sự nghiệp lớn, là danh nhân, đại sư, quan cao. Thủy Hỏa là đại biểu kết quả danh lợi.

Kim mộc là Thiếu Âm, Thiếu Dương, thổ là không có âm dương, chúng nó đều là vận động quây quanh phú quý ở thủy hỏa, đại biểu nhân sự. Mộc vượng thấy kim, thì thuyết minh người này là một nhân tài, thông qua cần mẫn phấn đấu, học tập, rèn luyện sau này thành tài. Hoặc là đại biểu sản phẩm, mộc vượng thấy kim, có xuất ra sản phẩm văn hóa, nhưng không phải lập tức phú quý. Hoặc là một bác sỹ giải phẫu thẩm mỹ, bởi vì mộc đại biểu con người, thái vượng thì khí âm quá nặng tướng mạo nhìn không tốt, đặc biệt là Ất mộc vượng nhìn không tốt, thể hiện ở trên khuôn mặt hoặc là phương diện hình dáng, kim khắc mộc chính là dùng dao tu sữa một chút, cho nên là bác sỹ giải phẫu thẩm mỹ.

Kim Mộc đại biểu một loại con người và sự việc, một loại nghề nghiệp, con người và sự việc gì. Người này rất tài năng, là người thông qua gian khổ cầu tài, không phải là làm quản lý, làm quản lý cũng không quản mấy người. Đại biểu nhân viên tài giỏi, người làm việc cụ thể. Người này là một nhân tài, nhưng không có thành tựu, thành tựu thì phải xem thủy hỏa. người này là người tài năng, là một nhân tài, hoặc chính là cái sản phẩm, kim khắc mộc chính là sản phẩm văn hóa, chính là gia cụ, điêu khắc. Đem mộc đào tạo, người này là làm giải phẫu thẩm mỹ, trị bệnh, xoa bóp mát xa. Lấy phương thức gian khổ, vận dụng kỹ thuật thật cực khổ để kiếm tiền, nhân sự là như vậy. Mà không giống như thủy hỏa thì trực tiếp định sự nghiệp thành bại, làm quan, ông chủ phát đại tài. Những chỗ này thì gọi là thủ tượng. Căn nguyên thủ tượng quyết định xem bởi bản thể, mỗi một thập can đại biểu phải biết cái gì, Tự bính Tự chẳng qua là xem kết quả.

1.2 Tổng kết cho phép Hình Pháp

Chỗ nói hòa hợp, đối với thập thần mà nói gọi là hữu tình, đối với ngũ hành mà nói chính là cân bằng, cân bằng vượng suy ngoại hình và nội khí, cân bằng tất có chuyện tốt, chỗ này là rất đơn giản.

Hình pháp đoán hạng con người sự vật gì, thiên tính của nó như thế nào, ở bên trong thập can, thập thần đều biết, sau khi Tự bính Tự cát hung toàn bộ con người sự vật này đều lộ ra.

Vì vậy, Hình pháp xem khởi điểm và quá trình của con người sự vật, là quá trình cả đời người hoặc là một chuyện, là thủ tượng. Sau khi ngoại hình và nội khí lấy bản tượng và sự va chạm nhau trung hòa, tượng cân bằng, đi định nhân sự cùng cát hung. Đây chính là chỗ chúng ta truyền thụ Phép trung hòa Thập thần và phép Thập can Tự bính Tự.

2.1 Khí pháp

Khí pháp là nội dung hầu như thất truyền Một là, Khí nói âm dương trời đất là hạt nhân của Thuật âm dương ai cũng sẽ không dễ truyền; Hai là, Khí không thấy được phải thông qua Lý Khí mới có thể cho ra được, những cái này nếu không có đích thân thầy truyền lại dẫn dắt thì một đoạn thời gian là không thể có được. Tôi đã truyền qua 4 năm nay, cũng mang theo một nhóm học trò, về sau trên cơ bản cũng không bận tâm dạy học ở phương diện này.

Khí pháp rất lợi hại, không giống như thập thần, thập can có thể nhìn thấy được, khí là không nhìn thấy, phải Lý Khí. Chính là Lý phải xuất ra từ chủ khí trời đất, khí trời xem Nguyệt lệnh là được, vì vậy cách cục nhất định phải xem chân thần, mà Thái Cực cũng là lấy âm dương khí tháng làm cơ sở làm Thể.

Chỗ nói Địa chính là thế cục, vì vậy trong Thập Thần phải nói sắp xếp tổ hợp, mà trong Thái Cực giảng sinh khắc xuất khí, trong bát tự sau khi tổ hợp thiên can và địa chi phải sinh khắc, hướng dòng chảy sinh khắc ở nơi nào, sau khi sinh khắc thì khí nào là được tự do, khí nào là bị ức chế, thực ra chỗ này chính là thế cuộc của xã hội.

Các phương pháp luận mệnh toàn diện

Vì vậy học toán mệnh, Thiên xem Nguyệt lệnh, Địa xem thế cục bát tự cũng chính là hướng chảy của can chi thập thần tức là sắp xếp tổ hợp. Đây chính là gọi Chủ khí trời đất, đây cũng gọi là khí âm dương. Bọn nó là luận chỉnh thể, đây chính là Khí pháp.

Bất kể là phong thủy hay là Mệnh lý, từ xưa đến nay đều không dễ truyền Khí pháp, thông thường truyền cũng không học được, là chân chính cần phải có sư truyền thuật lại. Tổ hợp can chi biến đổi, địa khí sẽ thay đổi, cho nên phải làm sao hoàn toàn nắm chắc Lý Khí mới được.

Đây chính là Khí pháp, Khí pháp vừa nói trời đất, trời đất là tạo mệnh, như vậy là dùng chuyên môn để định đại cục cuộc đời con người, cũng chính là xem phú quý bần tiện, thọ yểu cát hung đời người. Xuất ra một bát tự, thì đại cục cả đời lập tức đã được định. Vì thế, dụng Cách Cục pháp, Thái Cực pháp đều là dùng để đoán đại sự, tiểu sự là thủ tượng phải lấy Hình pháp làm chủ đạo.

Ví dụ: Bát tự tuy chưa thành Thái Cực, nhưng một phương diện nào đó sẽ có thành tựu nhất định.

VD 1 Càn tạo: Quý Hợi, Giáp Tý, Ất Hợi, Nhâm Ngọ (Thân Dậu không)

Bát tự phân ra Hình pháp và Khí pháp, có vài người chỉ học Thái Cực, cho rằng bát tự có thủy mộc nhất khí là mệnh bần tiện, hoặc là chỉ học Cách cục, cho rằng bát tự không thành Cách cục cũng là mệnh bần tiện. Quan điểm như vậy trên thực tế rất là sai lệch, Cách cục và Thái Cực chỉ có thể định vị tổng thể đời người, mà không phải là toàn diện cả đời, hơn nữa không thành Thái Cực cùng Cách cục chỉ có thể nói là không có phú quý và thành tựu lớn, cùng bần tiện là không có quan hệ gì, trên xã hội có thể có mấy người là đại phú quý? Đa số đều là thường dân bách tính. Chẳng lẽ thường dân bách tính thì không thể có thành tựu, thì không thể có tiểu phú tiểu quý và có đơn vị rất tốt sao? Mà trên thực tế rất nhiều người làm việc ở cơ quan chính phủ, ở đơn vị xí nghiệp rất tốt, đều là không có Cách cục cùng Thái Cực, nhưng mà vừa xem Hình pháp thì là có thành tựu và đơn vị công tác, lại còn rất phong cách.

Chỗ này cùng Cách cục và Thái Cực là không có quan hệ, Cách cục và Thái Cực là dùng để định vị đại cục cả đời, không thành Cách Cục, Thái Cực thì không có phú quý lớn, trên thực tế đa số người đều không có đại phú quý, cũng không có tai họa lớn. Nhưng bệnh nhỏ họa nhỏ đều có, chỗ này đều là dùng Hình pháp để xem.

Rất nhiều người chỉ hiểu một chút tri thức Thái Cực thì sẽ nói tổ hợp bát tự như vậy chính là mệnh bần tiện tồi tệ, bát tự khí âm vượng như vậy, cần phải có dương, chế được âm thủy cần phải dụng Mậu thổ, mà không có Mậu thổ xuất ra thì sẽ bị hủy diệt, bởi vì mộc rất vượng, lại không có kim. Ý là nói tạo này âm vượng không có dương cân bằng, khẳng định là không có Thái Cực. Bát tự này Thái Cực muốn thành lập, cần phải thấy rất nhiều chữ, trước tiên là phải thấy Mậu thổ, sau khi thấy Mậu thổ, bởi vì khí mộc thấu ra, mộc phải khắc thổ, lại phải thấy kim, phải trước kim sau thổ, có hỏa càng tốt, nhưng hỏa lại không thể đi khắc kim. Hỏa quá nguy hiểm còn không bằng không nên xuất ra. Trước kim sau thổ tất có phú quý, lại có hỏa ra chỉ đến sinh thổ không khắc kim, thì phú quý song toàn.

Hiện tại trong bát tự không có thổ kim, thì không có Thái Cực, Ngọ hỏa lại có bị thương, là có vấn đề, nhưng cũng không phải là không thể có thành tựu. Cách cục cũng như vậy. Trước đây rất nhiều sách nói thành cách cục là phú quý, không thành cách cục là bần tiện. không thành cách cục chỉ là không có thành tựu xã hội lớn mà thôi, không thành Thái Cực cũng cùng một đạo lý, trời sinh không có đại phú quý, thì đơn giản như vậy, không thành Cách Cục, Thái Cực cùng có bần tiện hay không là không có bất cứ quan hệ nào cả.

Khí pháp định đại cục, nhưng những cái khác như công việc nghề nghiệp, học vấn, hôn nhân gia đình hoàn toàn đều phải dùng Hình pháp để xem. Xem từ Hình pháp thì tạo này có chút tia sáng, chính là một phương diện nào đó có chuyện tốt, có thành tựu, đều là dùng Hình pháp xem, chính là phải “Tự bính Tự”.

Thì dựa vào chỗ chút tia sáng này, mệnh chủ có học vấn, có đơn vị sự nghiệp tốt. Bởi vì có Giáp mộc, Giáp mộc là Thiếu Dương, có đủ hóa âm. Giáp mộc không đại biểu thành tựu, mà đại biểu nhân sự, ở trên tháng thì đại biểu đơn vị thuộc hạ của chính phủ, phương diện này chính là đơn vị sự nghiệp. Nếu như vừa có Giáp mộc, vừa thấy Bính hỏa, ở trong đơn vị tiểu sự nghiệp còn là một người lãnh đạo, vẫn có thể xem ra được những nội dung này.

Nhưng mà xem từ Thái Cực, nếu như không có Thái Cực, thì nói là mệnh bần tiện, thì cùng sự thực là khác nhau rất xa. Bởi vậy luận mệnh không có đơn giản như vậy. Có vài người trước đây cho rằng một Thái Cực, Cách Cục nào cũng đều có thể luận, mà trên thực tế chỗ này là định đại cục. Nếu như đi luận mệnh như vậy, thì rất khó có chỗ đứng. Nhưng mà có vài người chỉ sẽ xem phép cân bằng Thập Thần, bao gồm cả “Tự bính Tự”, thủ tượng là rất tốt, cho là cao thủ, trên thực tế chính là tiên sinh toán mệnh bình thường, căn bản là không đoán được đại sự.

Xem bát tự nhất định phải kết hợp Hình Khí, trước là dùng Khí pháp đoán đại sự, tiến hành định vị cả đời, đại khái là thuộc tầng lớp dạng người nào, sau đó mới dùng Hình pháp đoán tiểu sự, là đi luận từng chi tiết về công việc sự nghiệp, tình cảm hôn nhân ….

Thông qua Khí pháp định vị đại cục, người này không có thành tựu lớn, cho dù có hỏa xuất ra, cũng không thể làm đại quan, cũng chỉ là lãnh đạo nhỏ ở trong một đơn vị nhỏ, chỗ này là hết mức. Bởi vì không có Thái Cực, Cách Cục, không thể làm lãnh đạo lớn được.

Tạo này có chút tia sáng chính là Giáp mộc, bởi vì Giáp mộc là Thiếu Dương vượng, từ Khí pháp mà nói Giáp mộc là kỵ thần, nếu như thổ xuất ra là mộc khắc thổ, lập tức làm chuyện xấu. Hiện tại không có mộc khắc thổ, không có loại đại tai này, nhưng mà có mộc tồn tại, Thái cực là không thành lập được.

Nhưng Giáp mộc từ góc độ Hình pháp mà nói là đại biểu có học vấn, có đơn vị. Chẳng qua ở trong đơn vị không làm quan mà thôi, hoặc là gặp đến lưu niên lúc có hỏa xuất ra, chỉ cần hỏa có căn, không bị thủy khắc mất, thì năm đó khá là sáng sủa, nói nó có phụ trách một vài việc, vẫn có chút chức vụ nhỏ.

Đây chính là Hình pháp, Hình pháp luận chi tiết cả đời cũng chính là quá trình, chỗ nói quá trình thực tế chính là từng phương diện nhân sự trong cả đời, như sức khỏe, tật bệnh, hôn nhân, gia đình, công việc, sự nghiệp. Vì vậy luận mệnh đối với Hình pháp mà nói, phép trung hòa thập thần và phép thập can “Tự bính Tự” luận toàn bộ sự tình ở phương diện này.

VD 2 Khôn tạo: Giáp Dần, Đinh Mão, Ất Sửu, Mậu Dần (Tuất Hợi không)

Bát tự này cũng là giống nhau, nếu như dùng Khí pháp xem, cũng không có thành Thái Cực. Khí pháp xem âm vượng dụng dương, dương là hỏa thổ kim, dương xuất hiện Đinh hỏa và Mậu thổ, nhưng mà không có kim. Không có kim, Mậu thổ là không dùng được, dẫn đến khí âm không đè ép được, Đinh hỏa là bị ức chế. Cũng chính là nói âm vượng dụng dương, phải là có dương chế âm, nhưng tạo này có chút âm chế dương, cũng gọi là tổn thương dương, tổn thương ở bản thân, trên sức khỏe nhất định phải chú ý.

Góc độ Thái Cực chính là định vị cả đời như vậy, không có đại phú đại quý đại thành tựu. Mà 80, 90% con người đều không có đại phú quý, đều là dân thường, nhưng người dân thường cũng có thể có sáng sủa có thành tựu, chỗ này thì phải dùng Hình pháp xem. Dùng Hình pháp xem có mấy tổ hợp đều rất tốt. Giáp mộc thấy Đinh hỏa, mộc vượng thấy Đinh hỏa là chuyện rất tốt, mộc hỏa thông minh đặc biệt là có tài hoa. Mộc vượng thấy Đinh hỏa là cân bằng, Đinh hỏa càng vượng, càng cân bằng thì càng tốt.

Đinh hỏa trên cơ bản là có thể dùng, nhưng hơi có chút thụ thương nhỏ. Đinh hỏa ở tháng Mão là tướng, là có một chút khí, nhưng mà rất suy nhược, lại vô căn. Giáp Đinh là tương sinh, là Hình Khí tương sinh, lực tác dụng nhỏ, Giáp Đinh biến thành Bính. Ất mộc sinh Đinh hỏa có chút mùi vị mộc đa hỏa tắc, vì vậy Đinh hỏa có đủ dùng, nhưng mà là có chút tổn thương. Đinh hỏa ở trên tháng có đủ dùng, khẳng định có đơn vị, ngoài ra ở phương diện văn hóa sẽ có thành tựu, Đinh hỏa càng vượng, thành tựu càng lớn. Vì thế tạo này có học vấn cao, có đơn vị.

Sinh năm Giáp Dần, lúc đó khu vực này thông thường là học vấn đều không quá cao, mà học vấn của mệnh chủ thật cao, vẫn có đơn vị, sau đó ở phương diện kỹ nghệ còn có thành tựu nhất định. Mặc dù cũng không có thành Thái Cực, nhưng mà từng phương diện vẫn cứ có rất nhiều điểm sáng.

Vì vậy Thái Cực định đại cục, đại cục định xong thì kết thúc, chi tiết cả đời chính là dựa vào Hình pháp xem, chính là dựa vào bản tượng thập can và thập thần cùng “Tự bính Tự”.

2.1.1 Phương pháp cụ thể của Khí pháp định đại cục:

Câu hỏi: Thái Cực thị định vị đại cục cả đời, phép định như thế nào? Hạng cuộc đời nào có phú quý, hạng cuộc đời nào có tai họa, hạng cuộc đời nào khá là gian khổ, hạng cuộc đời nào khá là thanh nhàn, làm sao định?

Trọng điểm của chúng ta là nói Thái Cực, mặt ứng dụng của Thái Cực so với Cách cục phải rộng hơn rất nhiều, bởi vì là Thiên mệnh, hơn nữa so với Cách cục cùng tốt hơn rất nhiều.

Thái Cực là định đại cục cả đời, phép định như thế nào, làm sao định tốt, làm sao định kém, không có tốt xấu rõ ràng, chính là người bình thường làm sao định, khẳng định là có quy định, Thái Cực chính là xem cân bằng khí âm dương. Quy định là:

+ Phú quý: Âm dương cân bằng.

+ Tai họa: Tổn thương âm tổn thương dương.

+ Bình thường: Âm dương không cân bằng, nhưng không tổn thương âm, dương.

Phú quý phải xem khẳng định là âm được dương cân bằng, dương được âm cân bằng, tất có phú quý. Muốn đạt đến cân bằng nhận được phú quý thật không đơn giản, có khẩu quyết: Khí định đại cục, Hình lấy lạc thực, tổ hợp xuất cát hung. Ba bước này đều thành lập, mới là âm dương cân bằng. Trước tiên phải cân bằng Khí, còn Hình phải được lạc thực (là nơi ổn định, chỗ dừng lại), cuối cùng lại thêm tổ hợp thích hợp, đây mới là chân chính cân bằng âm dương.

Tai họa thì rất đơn giản, tổn thương âm dương tất có tai họa lớn, đem âm dương đều bị tổn thương hết, đó chính là họa tử vong. Đã không có cân bằng âm dương, cũng không có tổn thương âm dương, đó chính là người bình thường.

Nhưng mà người bình thường cũng có mấy loại tốt, một loại người bình thường rất gian khổ, vừa nhìn là biết gian khổ, một đời thanh bần, rất nhiều sự tình, tiền nói chung là không đủ dùng, phải mượn tiền. Còn một loại cũng là người bình thường, nhưng mà đại cục Thái cực đã nói cho bạn biết rằng, người này khá có phúc khí, khá thanh nhàn. Còn có một loại thanh nhàn nhưng mà mệnh thọ khá ngắn, chỗ này Thái Cực đã nói cho bạn biết. Thọ mệnh 60, 70 tuổi, hoặc là nói khoảng 60 tuổi, thuộc về mệnh thọ khá ngắn, bệnh cũng khá nhiều, là một loại người có thọ mệnh sẽ không dài, nhưng mà cũng không có tổn thương âm dương. Tổn thương âm dương, là có đại tai hoặc là hung tử, hoặc là thọ mệnh không đến 60 tuổi. Mà có cũng không có tai họa gì lớn, nhưng mà tương đối để nói thì thân thể không quá tốt, thọ mệnh cũng không rất dài. Vậy làm sao phân biệt được chứ?

Có tai họa lớn cùng phú quý lớn rất dễ dàng nhìn ra, người bình thường làm sao phân biệt chứ? Người bình thường khẳng định cũng có trạng thái cuộc đời của nó, bởi vì Thái Cực là định đại cục cả đời người.

Nếu như một bát tự âm là Thể là chủ đạo, âm rất vượng, thì âm khống chế dương, còn dương rất nhược, nhưng mà không có tổ hợp âm tổn thương dương, cũng chính là không có tổ hợp mộc khắc thổ, thủy khắc hỏa. Hoặc là có thủy khắc hỏa, nhưng mà không có mộc khắc thổ. Đại biểu là gian khổ, thanh bần, có bệnh, khốn đốn, bởi vì âm đại biểu thanh bần, gian khổ, tật bệnh.

Nếu như một bát tự lấy dương làm chủ đạo, dương khá vượng, âm khá nhược, nhưng mà không có dương vượng làm tổn thương âm, cũng không có cân bằng âm dương, không có Thái Cực. Dương đại biểu có phúc báo, vẫn là khá thanh nhàn, còn âm thái nhược, âm đại biểu thọ mệnh, thân thể sẽ không quá tốt, thọ mệnh cũng chỉ là 60, 70 tuổi. Nhưng mà có phúc báo, tốt nhiều là có đơn vị, có thu nhập.

Có vài âm dương cũng xấp xỉ vượng, nhưng vẫn là không cân bằng, không có tổ hợp thì không có cách gì cân bằng. Âm cũng vượng, dương cũng vượng, nhưng chỉ là không có tổ hợp âm dương, không có tổ hợp thì không thành Thái Cực. Bát tự như vậy từ Thái Cực mà nói, là không có phú quý lớn, nhưng tương đối mà nói thì cả đời khá là trung hòa, bình ổn, kinh tế cũng không tính là kém, sức khỏe và tình cảm hôn nhân cũng bình thường.

Vì vậy Thái Cực trên cơ bản nắm đại cục cả đời cũng được quyết định, chặt chẽ hơn nếu so với cách cục. Thực ra Cách cục ngoại trừ định vị cấp độ xã hội phú quý bần tiện cả đời, cũng có thể nhìn thấy rất nhiều nội dung, như hung thần cách cục cần phải chế hóa, nếu như hung thần cách cục không có chế hóa vẫn đi tổn thương cát thần tất có tai họa, cát thần phải hộ vệ, lúc cát thần là Thể thì không chỉ không có hộ vệ, trái lại bị chỗ hung thần làm tổn thương, tất có tai họa, chỗ này gọi là hung cách hung cục.

Bên trên chính là những nét cơ bản tri thức cần phải nắm rõ. Trước đây có nói Tài Quan pháp, sau thì nói hoàn thiện phép trung hòa thập thần, cách cục pháp, thái cực pháp, thập can “Tự bính Tự” cũng đã nói.

Hiện tại thì cần chú ý là lấy tất cả những phương pháp này dung hợp lại trong bát tự để cùng dùng vơi nhau. Không chỉ có thể mà còn phải biết kéo dài vô hạn, chính là đoán từng hạng mục, tất cả đều phải kết hợp cả 2 phép Hình pháp và Khí pháp, trước đó đều phải định một điểm Thái Cực. Xem một thập thần, luận thuộc tính xã hội, xem một ngũ hành, luận thuộc tính tự nhiên. Sau đó lấy điểm Thái Cực cũng những chữ va chạm nhau, làm thành một loại thủ tượng, cũng chính là quá trình đoán cả đời người. Điểm Thái Cực có cân bằng âm dương hay không, đoán phú quý bần tiện, thọ yểu cát hung.

2.1.2 Luận mệnh hoàn chỉnh bao gồm mấy nội dung lớn

Dưới đây là nói làm sao luận hoàn chỉnh vận mệnh một con người, hoặc là nói luận hoàn chỉnh một sự việc, một hạng mục đơn vì dụ như tình cảm hôn nhân.

Bất kẻ là luận một con người hay là một sự việc, đều bao hàm 3 phần: Cá thể, Cục bộ và Chỉnh thể.

Chỗ nói Cá thể chính là điểm Thái Cực, luận điểm Thái Cực của mệnh chủ chính là Nhật can. Luận một chuyện, cũng là có điểm Thái Cực, như luận hôn nhân cũng có điểm Thái Cực. Điểm Thái Cực của hôn nhân, từ góc độ thập thần mà nói, nữ mệnh chính là Quan Sát, phải lấy Quan Sát làm điểm Thái Cực. Luận chuyện gì, thì chuyện này là điểm Thái Cực, đây chính là Bản thể. Vì vậy bản thể đều thuộc về phạm trù cá thể, phải biết cá thể là cái gì. Luận mệnh chủ, cá thể chính là nhật can, thông qua loại vật của nhật can để xem nhật chủ là một người dương nào, đây là khởi đầu luận con người sự vật. Mục tiêu phải rõ ràng, chỗ luận bản thể sự tình là cái gì, là dạng mục tiêu nào, vì vậy mới gọi là Cá thể. Sau khi biết mục tiêu, phải luận chuyện cụ thể, luận chuyện cụ thể thì gọi là Cục bộ.

Chỗ nói Cục bộ, ví dụ như luận từng phương diện nhân sự cùng cát hung cả đời một người, bao gồm cả sức khỏe tật bệnh, tình cảm hôn nhân, công việc sự nghiệp … đều gọi là Cục bộ. Cục bộ còn gọi là quá trình sinh mệnh, gọi tắt là quá trình luận người, sự, vật.

–  Cá thể

Cá thể gọi là khởi đầu, mục tiêu phải chính xác, rốt cuộc là phải luận nội dung gì, bản tượng là dạng nào. Tiếp theo là phải đi vào Cục bộ, quá trịnh của sự tình này là phát sinh dạng nào. Cục bộ chúng ta đã nói qua, chính là tổ hợp tự bính tự ở trong thủ tượng.

Tiếp theo là chúng ta phải đi luận Chỉnh thể, chỗ nói Chỉnh thể là cá nhân này, sự kiện này kết quả cuối cùng như thế nào. Chỗ nói kết quả chính là định đại cục cho nó, thành bại của sự kiện này, phú quý bần tiện, thọ yểu cát hung của người này, đó là Chỉnh thể. Chỉnh thể chính là nói vận mệnh, là chỗ trời đất định. Vì thế Chỉnh thể đều phải nói đến Cách cục và Thái cực, nhất định là Khí, chứ không phải là Hình.

Cổ nhân có câu nói “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.” Bất cứ sự tình nào thành bại là không phải dựa vào cá nhân của bạn, cá nhân rất trọng yếu, phải đi mưu cầu việc làm, nếu như không đi làm, thì cũng không có thành bại. Nhưng mà trả giá sự nỗ lực, cuối cùng thành bại nhất định là ở trời đất, đây chính gọi là vận mệnh. Vì vậy có rất nhiều người trên xã hội hết sức nỗ lực, mà rất nỗ lực cũng không nhất định là rất thành công, nhưng nếu không đi làm, khẳng định sẽ không có thành công. Đi làm là có hi vọng, nhưng làm không phải là nhất định thành công.

Như người học tập, dụng công khẳng định sẽ tiến bộ, nhưng không nhất định có thể trở thành thiên hạ đệ nhất. Học tập chỉ biết học được vật, nếu như chỗ bản thân cho rằng thành công nhất định là thiên hạ đệ nhất, nhất định phải rất lợi hại, vậy thì không nhất định, đây đều là có thiên mệnh. Vì thế luận một sự kiện và luận mệnh đều là như vậy, trước tiên là xem Cá thể, nếu như luận một cá nhân thì trước tiên phải xem nhật can, nó là dạng loại người nào, tố chất thân thể như thế nào, hình thể tướng mạo như thế nào.

– Cục bộ

Giảng Cá thể xong, tiếp theo là giảng Cục bộ, Cục bộ chính là tổ hợp tức là “Tự bính Tự”, nội dung nói về đồng gia nhiều hơn một chút, chữ này có cái gì hộ vệ, và ai là người trong nhà. Ví dụ như nhật can là mộc, đồng gia của mộc là hỏa, xem trong bát tự có hỏa hay không, hỏa là thần bảo hộ cho mộc. Nếu như nhật can là mộc mà không thấy hỏa, trước tiên có thể khẳng định người này là không có chỗ dựa, khá là cô độc, không có cảm giác an toàn, cho dù nó rất thành công, cũng có cảm giác là không an toàn.

Bởi vì mộc không thấy hỏa, Thiếu Dương không thành dương, duyên phận quan hệ cùng cha mẹ khá là nhạt nhẽo, cho dù cùng cha mẹ mỗi ngày cùng ở với nhau nhưng đều không thân thiện. Dưới tình huống thông thường là thường trải qua bất hòa cùng cha mẹ, thậm chí từ nhỏ đã ly khai khỏi cha mẹ. Bởi vì Thiếu Dương phải thành dương, mộc đại biểu nhân sự, hỏa đại biểu thành tựu, cha mẹ, chỗ dựa, hỏa là to lớn, là mục tiêu của mộc, khiến cho bản thân không có chỗ dựa, mà Thiếu Dương không thành dương, thì không có chỗ dựa và mục tiêu, chỗ này đều có thể suy diễn ra.

– Chỉnh thể

Luận mệnh, xem một sự kiện, quá trình Chỉnh thể đều là như vậy. Trước luận Cá thể, Cá thể chính là điểm Thái Cực, bản thể, mục tiêu. Lại luận tiếp Cục bộ, Cục bộ chính là một sự kiện, quá trình một con người, thông qua thập can “Tự bính Tự”, phép trung hòa thập thần có thể xem nhân sự và cát hung. Cuối cùng thành bại của sự tình này, thì nhất định phải dùng Khí pháp xem. Vì vậy, luận bát tự nhất định phải xem Cách cục và Thái cực. Nếu như luận lục thân sinh tử cuối cùng khẳng định cũng phải xem Thái Cực, chỗ này là không thể có biện pháp nào khác. Chỉ có Thái Cực âm dương mới quyết định sinh tử, âm dương mới quyết định kết cục cuối cùng của một con người bao gồm cả bản thân và lục thân và sự tình này. Đây chính là quá trình luận mệnh, nhất định phải biết.

– Điều kiện thể hiện Cá thể

Cá thể, Cục bộ, Chỉnh thể cùng các loại phương pháp đối ứng, chúng ta vừa mới nói qua, cá thể chính là thập can và thập thần. Bản tượng thập can và thập thần, có thể hiện hay không, tố chất thân thể của Cá thể như thế nào, thì xem vượng suy cường nhược, là xem có được Nguyệt lệnh hay không, có thông căn thấu can hay không.

Như nhật can của một người rất tốt, là can khí dương, Giáp mộc, Bính Đinh hỏa, Mậu thổ, Tân kim đều là có báo phúc. Mặc dù là nhật can Bính Đinh hỏa tốt nhất, dưới tình huống thông thường là rất có báo phúc, thì dễ dàng xuất danh, dễ dàng có chức vụ, không quá gian khổ, nhưng có vài người có Bính Đinh hỏa vẫn cứ là khổ mệnh, đây là tại sao? Chỗ này thì phải xem Cá thể. Không phải chúng ta nói Cá thể xem bản tượng thập can là cơ sở hay sao? Tiếp theo là phải đi xem cái gì?

Bản tượng rất tốt, nếu như Bính Đinh hỏa, Mậu thổ, Giáp mộc, Tân kim, đặc biệt tượng Tân kim trời sinh chính là gọi tài, rất nhiều nhật can Tân kim cơ bản đều là rất giàu có, nhưng có vài nhật can Tân kim lại là rất nghèo.

Nhất định phải xem thập can vượng suy cường nhược, nếu như báo phúc không có được kích hoạt, cho dù là Bính Đinh hỏa báo phúc cũng sẽ không có thể hiện. Như Bính Đinh hỏa sinh ra ở tháng Hợi Tý Sửu, âm rất vượng, thủy rất vượng, hỏa thuộc về tử địa, không có được kích hoạt, cũng không có Hậu thiên Mậu thổ cứu ứng. Nếu như không chỉ không có được kích hoạt, lại thấu ra thủy khắc hỏa, còn có gì báo phúc chứ?

Lúc này muốn có báo phúc, tất cần phải đem Bính Đinh hỏa kích hoạt, một là cần có thổ khắc thủy, nếu như trong bát tự xuất hiện thổ khắc thủy, vẫn là có thành tựu. Hai là phải xuất hiện Giáp Ất mộc đi sinh Bính Đinh hỏa, Ất mộc cũng được, sẽ có một chút ít thanh danh nhỏ, nhưng chỗ báo phúc cũng không lớn. Bởi vì Giáp Ất mộc ở mùa đông bản thân lại nhược như vậy, làm sao có thể hóa tiết bao nhiêu thủy chứ? Hóa tiết thủy ít, bản thân đều khó giữ gìn, có thể cho hỏa bao nhiêu khí dương chứ? Mộc và hỏa là sống nương tựa lẫn nhau, mộc cũng cần hỏa, hỏa cũng cần mộc, cả hai đều nhược có xu thế thành bầy, đại biểu người này thông qua học tập có chút thành tựu nhỏ.

Nếu như là Mậu thổ lại có căn đi khắc thủy, vậy thì lợi hại, báo phúc vẫn là sẽ thể hiện, tất là người phú quý, không xem những thứ khác, chỉ cần Mậu thổ có căn không tổn thương, có thể bảo hộ Bính Đinh hỏa, khiến cho Bính Đinh hỏa thực hiện việc báo phúc, người này tất có phú quý. Những cái khác đều không cần xem, luận mệnh thì luôn luôn chỉ xem một chữ, đó chính là vượng suy cường nhược.

Lại đưa ra một ví dụ, như có vài nhật can bát tự là Nhâm Quý thủy, Lão Âm là rất bần tiện, nhưng có vài Nhâm Quý thủy cũng rất phú quý, là tại sao chứ? Bởi vì loại vật này ở phương diện mặt phụ bị ức chế không có thể hiện, chỉ thể hiện phương diện tốt. Nhâm Quý thủy đại biểu bần tiện, nhưng Nhâm Quý thủy cũng có một mặt tốt, Nhâm Quý thủy trời sinh thì đại biểu dục vọng, địa bàn, quyền lợi, tư bản, nếu như đem chỗ không tốt này ức chế được, đem chỗ tốt khai phát ra, người này chính là một người giàu có, là người làm đại sự. Vì vậy Nhâm Quý thủy ở mùa đông nhất định phải thấy Mậu thổ, nhưng Mậu thổ không thể thụ thương, hoặc là thấy Giáp mộc, là người thông minh, thậm chí là thiên tài.

Hoặc là vẫn có một loại phương thức tốt nhất, chính là sinh ở tháng Tị Ngọ Mùi, trời sinh là có thành tựu. Tháng Tị Ngọ Mùi thì ông trời đào tạo cho nó, âm dương cân bằng, nhưng mà Nhâm Quý thủy nhất định phải có căn. Nhâm Quý thủy ở tháng dương, hỏa thổ đã đem âm thủy đào tạo, đem một mặt bần tiện của nó đi áp chế, thủy đại biểu danh lợi vật chất đều thể hiện ra. Nhưng mà tháng Tị Ngọ Mùi thủy rất nhược, có thể ức chế, nhưng mà không thể thụ thương, bản thân Nhâm Quý thủy phải có căn khí. Hoặc là lúc này có bảo hộ, có kim sinh thủy, lúc thổ thái vượng thì có mộc khắc thổ, lúc này đều thành Thái Cực, đây chính là Thái Cực pháp. Lúc này Nhâm Quý thủy không chỉ không bần tiện, mà trái lại còn có phúc báo rất lớn.

Nhâm Quý thủy là can khí âm, dáng vóc rất xấu, nếu như Nhâm thủy hoàn toàn lạc thực, không có chế hóa, thì người này tà khí rất nặng, là người bất chính, nhìn qua có vẻ mặt gian xảo. Dáng vóc Quý thủy vừa đen lại xấu xí. Chỗ này là nói nếu như Nhâm Quý thủy lạc thực, âm không có chế hóa khẳng định chính là như vậy, dáng người rất xấu xí, vừa nhìn có vẻ mặt gian xảo, trên xã hội là tầng lớp thấp nhất, là người có tâm bất chính, lạc thực chính là như vậy. Nhâm Quý thủy âm phải chuyển hóa, nếu như đem nó đào tạo, ức chế, khẳng định sẽ không phải xấu. Có mộc, da dẻ cũng không đen, có Mậu thổ khẳng định lớp da cũng không quá đen, hơn nữa khá là ướt át.

Bất kể là can khí âm hay là can khí dương, đều phải xem vượng suy cường nhược của nó, vượng là thể hiện. Can khí dương đương nhiên phải vượng, can khí dương là có báo phúc, vượng thuyết minh là có kích hoạt, tất có phú quý, đương nhiên Hậu thiên không thể bị phá hư, vượng lại bị phá hư, khẳng định cũng không có báo phúc.

Khí can âm đại biểu báo họa, như nhật can là Canh kim khá vượng, nếu không thấy hỏa, hoặc thấy hỏa mà hỏa lại bị phá hư, cũng không thấy có thủy tiết kim, hoặc xuất hiện thủy, nhưng thủy nhược lại bị chế. Canh kim là can khí âm xem không tốt, trên tướng mạo đặc điểm rõ ràng nhất chính là khuôn mặt rất lớn, khó nhìn, 80. 90% là như vậy, nhưng Canh kim thấy Bính Đinh hỏa thì rất xinh đẹp. Như bát tự nữ mệnh có trụ ngày Canh Tuất, thiên can tuy có thủy, nhưng đều là thổ khắc thủy, lại không có hỏa, khuôn mặt ngắn nhiều thịt. Bởi vì Canh kim đại biểu có chút xấu cho nên phải đào tạo, tốt nhất là thấy hỏa. Vì vậy Canh kim thấy hỏa, là đại mỹ nữ chân chính.

Canh kim cũng có thể thấy thủy hóa tiết, cũng sẽ rất đẹp, nhưng mà không thể ở tháng âm, tháng âm thủy cũng là âm, khuôn mặt không có cái gì là khó nhìn, nhưng mà là mặt thịt béo phì. Đặc biệt bát tự lại có chút dương, như thấy chút thổ, hoặc có chút mộc có thể tiết thủy, khẳng định béo phì.

Thập can rất lợi hại, xem loại hình thể tướng mạo, đặc trưng, đặc điểm, tai báo phúc báo một nhân sự, định vị trên xã hội toàn bộ ở trong đó. Can khí dương lạc thực không có thụ thương, trên cơ bản lại có thể cân bằng âm dương, không cần xem, khẳng định người này là có báo phúc, ở trên xã hội là người có thân phận có địa vị. Thì không cần xem Thái Cực, chẳng qua Thái Cực là xem thành tựu lớn nhỏ.

Vì vậy chỗ này chỉ là nói Cá thể, Cá thể không chỉ phải biết can khí âm và can khí dương, còn phải biết vượng suy cường nhược.

– Kết hợp Thập Can cùng Thập Thần luận mệnh

Thập thần cũng là giống như vậy, thập thần xem tài phú, công việc thu nhập phải xem Tài tinh, nếu lấy Tài tinh làm điểm Thái Cực, Tài tinh là một cát thần phải kích hoạt, nếu như Tài tinh không đắc nguyệt lệnh, lại có Tỉ kiên Kiếp tài khắc chế hoặc là Quan tinh thái vượng tiết thương Tài tinh, tìm công việc rất khó khăn, hoặc là thu nhập không ổn định, nếu như nói không có Thái Cực hoặc Cách cục, thì thu nhập rất thấp. Cát thần Tài tinh phải hộ vệ, lấy Tài tinh làm trung tâm để xem, hộ vệ tốt, lại cùng nhật can trung hòa, thì tìm công việc khẳng định rất dễ dàng, thu nhập rất cao.

Vì thế có vài người kiếm tiền rất dễ dàng, có vài người kiếm tiền rất khó. Chúng ta có thể đem thập thần và thập can kết hợp lại xem, có vài nhật can là một can khí dương, trong can khí dương rất dễ dàng rước tài là Tân kim, người này trời sinh là rước lấy tài. Nhưng mà từ bát tự xem thập thần là có công việc hay không, thì làm sao giải thích chứ?

Trong xã hội có thu nhập ổn định hay không, là phải xem Tài tinh. Thái Cực pháp và Cách Cục pháp chỉ có thể xem một người rất giàu có, nhưng không nhất định có công việc cố định. Hiện tại trên xã hội người như vậy càng nhiều, chơi cổ phiếu chứng khoán, hoặc cha mẹ giàu có, tuy bản thân không có công việc, nhưng mà có tiền rất nhiều.

Nếu như nhật can lạc thực (dừng lại) là Tân kim, ở nguyệt lệnh được kích hoạt, hơn nữa lại không có bị phá hư, toàn bộ âm dương trên cơ bản là cân bằng, người này bất kể đặt ở đâu cũng đều có thể gọi tài đến. Nhưng nếu như Tài tinh bị phá hư, không có thu nhập ổn định, nhưng chính là sẽ có tiền. Hoặc là ngồi ở trong nhà không làm lao động, cha mẹ anh chị em, phối ngẫu cũng sẽ cho hắn tiền, đây chính là vận mệnh.

Vì vậy thập thần và thập can chính là xem những nội dung này, chính là xem Cá thể, đây gọi là Cá thể. Vì thế thông qua một cái cá thể thì có thể biết rất nhiều chuyện, giống như giới động vật, có vài động vật to khỏe, thân thể rất tốt, nói cách khác vừa nhìn thấy nó là loại vật này, là biết chỗ không có thụ thương, không có tình huống rất nhược mà khẳng định thân thể rất tốt, rất khỏe mạnh. Nhưng có vài loại vật, như hoa cỏ cây cối trong tự nhiên, đặc biệt là trồng loại rau cải, người trồng rau cải thì biết, có vài cây rất giòn yếu, có điều khi trồng rau cải xuống thì côn trùng rất nhiều, trời lạnh một chút cũng không được, nóng một chút cũng không được. Nhưng có vài cây rau cải khi trồng xuống, cái gì cũng không cần đến, thì vẫn có thể sinh trưởng rất tốt.

Đây chính là loại vật không giống nhau, sức khỏe, thọ mệnh là hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, chúng ta phải biết loại vật thập can, có vài loại vật rất lớn mạnh, rất có phúc khí, còn có vài loại vật thì đại biểu tai họa, hơn nữa thân thể cũng không tốt.

– Cá thể Thập Thần

Thập thần cũng giống như vậy, chỉ cần là dương thì đều giòn yếu. Tài Quan Ấn Thực tứ cát thần là dương, Sát Thương Kiêu Kiếp tứ hung thần là âm. Tứ Cát thần rất sợ bị Hung thần chế, bị chế thì quan hệ xã hội sẽ không tốt. Tứ Cát thần là dương đều giòn yếu, trong đó dương nào là giòn yếu nhất? Trong bát tự thập thần nào thụ thương, thông thường ở phương diện sức khỏe, nhân sự thì sẽ xảy ra vấn đề?

Hiện tại nội dung đều nói hết, chủ yếu là luyện tập và tổng hợp ứng dụng, bởi vậy không chỉ có nói Thái Cực, những nội dung khác cũng đều đã nói. Trong can khí dương mộc là giòn yếu nhất, nhưng Giáp mộc vẫn là can khí dương, Ất mộc càng thêm không cần nói, là quá giòn yếu, Giáp mộc cũng giòn yếu, nhìn bề ngài thấy sức đề kháng tốt vô cùng, khá thích vận động, nhưng thực tế thì rất dễ dàng có bệnh phong thấp, rất dễ sinh bệnh.

Thập thần cũng giống như vậy, chỉ cần là dương đều là giòn yếu, thập thần khẳng định cũng phân ra làm Thiếu Dương và Lão Dương. Thiếu Dương rất dễ dàng bị thương, Lão Dương thì sức đề kháng khá mạnh. Thập thần trước tiên chủ bên ngoài đều khá là kiên cường, như Tài Quan, Ấn, Thực đều khá là giòn yếu, dễ dàng thụ thương. Bởi vậy một bát tự Thực thần và Ấn tinh thụ thương, rất nhiều là có trở ngại tâm lý, rất nhiều người có bệnh mãn tính. Kiêu thần đoạt Thực không có cứu đều có bệnh mãn tính, trở ngại tâm lý. Ấn tinh đại biểu mẹ, là chủ bên trong, là nữ tính, rất là giòn yếu. Tài Quan đại biểu cha, Quan tinh đại biểu ông chủ, sức đề kháng đều rất mạnh.

Do vậy đi xem quan hệ nhân sự, một bát tự Ấn tinh và Thực thần thụ thương, đều có trở ngại tâm lý, cũng chính à nói người này khá là cô tịch, hoặc là tỳ vị rất không tốt, thân thể là không tốt. Mà thân thể không tốt là vì nguyên nhân nào chứ? Nguyên nhân là quan hệ nhân sự không tốt dẫn đến tràng vị xảy ra vấn đề, hoặc là dẫn đến trở ngại tâm lý, sayu đó thì thân thể cũng không quá tốt.

Hiểu rõ những đạo lý này thì có thể kéo dài ra vô hạn, những nội dung này không thấy ở trên sách, bởi vì liên quan đến Thái Cực âm dương quá ít, tối đa có liên quan đến Thái Cực âm dương là chỉ có mấy câu khẩu quyết ở trên xã hội, phương pháp cụ thể và toàn diện ứng dụng kéo dài là không có. Vì vậy, bản thân chúng ta phải suy diễm, trước tiên phải phù hợp lý lẽ âm dương, sau đó ứng dụng, vừa ứng dụng thì biết có chính xác hay không.

– Ba điểm thiết nhập luận mệnh

Tất cả phương pháp luận mệnh đều nói, chúng ta đem tư duy mở rộng một chút, phải biết có 3 điểm thiết nhập khi luận mệnh, sau đó theo bất kỷ một điểm thiết nhập nào đều có thể luận mệnh. Tại sao nói luận mệnh không phải là một thiết nhập chứ?

+ Điểm thiết nhập nhật can

Trước đây chúng ta cho là luận mệnh nhất định là phải lấy nhật can làm trung tâm để luận, sau này chúng ta phát hiện không phải là như vậy, tại sao là không phải chứ? Nhật can làm trung tâm có đủ luận mệnh, có thể luận ra rất nhiều nội dung, nhưng mà có rất nhiều sự tình cũng không luận. Nhật can làm trung tâm đứng đầu có phép luận mệnh đại biểu là phép cân bằng vượng suy, loại phương pháp này luận sức khỏe, quan hệ nhân sự, tình cảm hôn nhân là có thể được, nhưng có nhiều sự tình vẫn là không thể luận, như phú quý bần tiện và sinh tử. Đây là điểm thiết nhập (cấp thiết) thứ nhất.

+ Điểm thiết nhập Nguyệt lệnh

Trên xã hội còn có xuất hiện phương pháp thứ hai đại biểu chính là Cách Cục pháp. Cách cục không xem nhật can, lấy Nguyệt lệnh làm điểm thiết nhập. Nhưng trên xã hội đi lệch Cách Cục pháp, mặc dù cũng là lấy Nguyệt lệnh làm điểm thiết nhập, nhưng không phải là xem chủ khí trời ở nguyệt lệnh, mà là xem địa chi tàng can ở Nguyệt lệnh, là sớm tách rời ra khỏi hạt nhân cách cục. Nhưng bất kể Cách cục pháp là dạng nào, đều là lấy Nguyệt lệnh làm trung tâm luận mệnh, chỗ này vẫn còn ở đặc thù. Đây là điểm thiết nhập thứ hai.

+ Điểm thiết nhập Thế Cục

Hiện tại ở trên xã hội có một vài người luận mệnh, không lấy nhật can làm trung tâm, không xem cân bằng vượng suy, cũng không xem cách cục nguyệt lệnh, mà là lấy hình thế cùng sắp xếp tổ hợp bát tự làm điểm thiết nhập mà luận mệnh, rất nhiều sự kiện chủ yếu cả đời cũng luận được rất chuẩn, ví dụ như mệnh lý manh phái là có loại phong cách này. Hoặc là trên xã hội có vài người, có tầng lớp nhất định, gặp đến một vài chỗ, thì là xem thế chạy của bát tự, xem can chi hoặc là thập thần bát tự thế chảy cuối cùng ở chỗ nào, hay là tổ hợp. Nếu như nói dùng 《 Trích Thiên Tủy 》, 《 Uyên Hải Tử Bình 》 gọi là thế cục, gọi là cục. Cục bát tự ở chỗ nào, thế lực bát tự ở chỗ nào. Chỗ nói thế cục chính là chúng ta nói chủ khí của Địa (đất), thì gọi là thế cuộc của xã hội, thì xem điểm tổ hợp can chi bát tự ở chỗ nào.

Vì vậy, “Tự bính Tự” cũng không chỉ có nói nhật can và chữ nào đi va chạm nhau, như kim khắc mộc, lúc mộc vượng, tất có chuyện tốt, người này thông qua gian khổ, nỗ lực sẽ có thành tựu. Nhưng mà trong bát tự kim vượng mộc nhược, thì không tổn thương lục thân tổn thương bản thân, không là bản thân có vấn đề, thì là lục thân không còn đủ. Chỗ này cùng nhật can là không có quan hệ, đây chính là “Tự bính Tự”, đây chính là tổ hợp, xuất hiện tổ hợp này thì tất nhiên sẽ xuất hiện cát hung, tượng nhân sự, cùng nhật can là không có quan hệ. Đây chính là xem thế cục bát tự lúc luận mệnh.

Nếu như một bát tự có cả một khối hỏa thổ kim, khí thế ở hỏa thổ kim lại đem mộc tiêu diệt mất, tất là có tai họa. Hoặc là một tổ hợp bát tự là một khối thủy mộc, kim có lực lượng, đó là đào tạo, tất có chuyện tốt, thế cục của nó thì ở kim khắc mộc, người này là một nhân tài, ở một phương diện nào đó rất có tài hoa, như phương diện chế tạo đồ dùng trong nhà, điêu khắc, phẫu thuật, thể dục, học tập khẳng định rất có tài hoa. Bởi vì tổ hợp bát tự thì ở chỗ này.

Do vậy trên xã hội có một vài môn phái, bao gồm cả Hương cảng Đài Loan nói về nguyên lưu, khí thế một bát tự dừng chảy ở chỗ nào, nhiều sự tình tốt thì xem từ nơi đó.

– Những điểm thiết nhập luận mệnh khác

Đương nhiên ngoại trừ lấy nhật can làm trung tâm, lấy nguyệt lệnh làm trung tâm, lấy thế cục làm trung tâm, còn có rất nhiều phép luận mệnh khác, như Thần sát, phép nạp âm luận mệnh. Vậy đã nói rõ trên thực tế luận mệnh từ bất kỳ một điểm nào đều có thể thiết nhập, đương nhiên Thần Sát và nạp âm vẫn không thể luận mệnh hoàn chỉnh. Nhật can, Nguyệt lệnh, Thế cục đều có thể luận mệnh khá là hoàn chỉnh.

2.2 Tổng kết Thiên Địa Nhân là ba điểm thiết nhập lớn luận mệnh

Bởi vì điểm thiết nhập chân chính luận mệnh, khả năng mọi người từ từ có chút hiểu biết, trong phương pháp chúng ta học qua, nếu như nói Chỉnh thể, đều là lấy chủ khí trời đất làm điểm thiết nhập, thông thường là Nguyệt lệnh. Nói Cá thể thập can “Tự bính Tự”, điểm nào cũng có thể thiết nhập, xem cái gì thì lấy chữ đó thiết nhập, nếu như xem nhật can thì lấy nhật can làm trung tâm làm điểm thiết nhập, trước đây nói phép cân bằng vượng suy hoặc là phép trung hòa thập thần, đều là lấy nhật can làm trung tâm. Nói Cục bộ cũng sự tình chủ yếu cả đời thì lấy thế cục làm điểm thiết nhập. Đây chính là Thiên Địa Nhân là ba điểm lớn thiết nhập luận mệnh, Nguyệt lệnh là Thiên, thế cục là Địa, nhật can là Nhân.

2.2.1 Phép tóm tắt Thiên mệnh luận mệnh

Luận mệnh là có 3 điểm thiết nhập, gọi là Thiên Địa Nhân, thiết nhập từ Thiên mệnh, thiết nhập từ Địa mệnh, thiết nhập từ Nhân mệnh. Ba loại phương pháp này chúng ta đều đã học qua, phương pháp loại đơn thì ham học hơn, nếu như nắm 3 loại phương pháp cùng kết hợp một lúc thì khá là tổn lực. Trong 3 loại phương pháp dường như Thái Cực pháp khó nhất, trên thực tế thiết nhập từ Thiên mệnh là rất dễ dàng luận mệnh.

Thiên mệnh chính là Nguyệt lệnh, đưa ra ví dụ đơn giản, như sinh ra ở tháng âm thấy dương, dương này không có thụ thương, tất có phú quý hay không? Ví dụ như tháng Dần Mão Thìn, Thiếu Dương phải thành dương, thấy Bính Đinh hỏa không tổn thương tất có phú quý, Bính Đinh hỏa thụ thương tất có tai họa.

Trái lại mà nói, tháng Dần Mão Thìn thấy đến thủy lại không có thổ khắc, trên toàn bộ cuộc đời thì không như ý, nếu như lại có mộc khắc thổ hoặc là thủy khắc hỏa, là thanh bần, tật bệnh thậm chí đoản thọ, lao tù. Khả năng cục bộ là rất tốt, ở trong đơn vị là làm quan, nhưng làm quan sau đó phải xảy ra đại sự, làm quan càng lớn, càng sẽ có đại tai.

Bởi vì chỗ luận đoán đại sự cả đời đều không ly khai ra khỏi Thái Cực, có chức vụ đều là phạm trù Hình pháp, là đúng tổ hợp Hình pháp, tổ hợp thủy mộc, thủy sinh thành mộc, Lão Âm sinh thành Thiếu Dương, mộc đại biểu đơn vị chính phủ, có thể làm quan, nhưng mà Khí pháp không phải xem như vậy, Khí pháp là định đại cục. Do vậy chỉ cần tháng Dần Mão Thìn Thiếu Dương, Thiếu Dương phải thành dương.

Vì vậy biết những phương pháp thì xem rất tốt, trái lại mà nói, nếu như sinh ở tháng Dần Mão Thìn thấy thủy, nhật can lại là thủy, thủy không có chế, không cần phải xem, là người khổ mệnh. Tại sao? Tháng Dần Mão Thìn nguyệt lệnh là Thiếu Dương phải thành dương, Thiếu Dương nhất định phải thành dương, thành dương thì âm dương cân bằng, mà thành dương rất sợ âm, vì vậy tháng Dần Mão Thìn rất sợ thấy thủy, thủy không có chế, mà bản thân lại là nhật can thủy, vậy thì nó không có phải là khổ mệnh sao? Nhật can Nhâm thủy là can khí âm, phải dựa vào dương mà cân bằng, phải dựa vào Mậu thổ chế, nhưng ở tháng Dần Mão Thìn, đặc biệt tượng tháng Dần Mão là mộc khắc thổ, thổ là tử địa, làm sao mà chế được chứ? Thể hiện đều là tai họa, chính là người mệnh khổ.

Tháng Dần Mão Thìn cần phải thấy hỏa thổ, chữ này ở chỗ nào thì chỗ đó thành tựu, hỏa thổ là nhật can, bản thân tất có thành tựu. Nếu như ở năm tháng, cha mẹ tổ thượng tất có thành tựu. Ở trụ giờ, con cái tất có thành tựu, bản thân ở trung niên đến già tất có thành tựu. Nó là rất đơn giản.

Tháng Dần Mão Thìn xem là như vậy, tháng Tị Ngọ Mùi không phải xem như vậy sao? Tháng Tị Ngọ Mùi khí dương rất vượng, nhất định phải dùng âm cân bằng, âm trước tiên là thủy. Tháng Tị Ngọ Mùi thổ cũng vượng, có thủy không tổn thương khẳng định có thể dùng có thể xuất danh, nếu như lại có mộc là xuất đại danh, nó chính là thành Thái Cực. Tháng Tị Ngọ Mùi dương vượng, dụng thủy mộc cân bằng, thành Thái Cực, là có thành tựu lớn. Tháng Tị Ngọ Mùi có thủy tất có thành tựu, nhưng thủy không thể thụ thương, tổn thương thủy tất có tai họa, đoản thọ. Thủy là nhật can, bản thân tất có thành tựu, thủy ở năm tháng thì cha mẹ tất có thành tựu. Nếu như thủy ở năm tháng, bản thân là thổ khắc thủy, cha mẹ ở bản thân lúc nhỏ khẳng định là quá phong thịnh, đợi sau khi bản thân ra đời, cha mẹ tất phải phá bại. Nếu như hiểu toán mệnh, thì biết đứa trẻ này vừa sinh ra, thì phải khiến nó cùng cha mẹ nhất định giữ gìn khoảng cách là tốt, bởi vì khí trường của đứa trẻ khắc cha mẹ. Đây chính là phép luận mệnh lấy khí tháng làm trung tâm, lập tức xem cũng rất tốt.

2.2.2  Phép tóm tắt Nhật can luận mệnh

Lấy nhật can làm trung tâm cũng một dạng nguyên lý, cũng suy luận giống như vậy, chẳng qua phải phân ra Hình pháp và Khí pháp. Bởi vì lấy nhật can làm trung tâm, khẳng định phải xem xét nhật can có được khí nguyệt lệnh hay không, hay là phải xem xét khí nguyệt lệnh.

Nếu như nhật can là Nhâm thủy đắc nguyệt lệnh, nếu là lấy nhật can làm trung tâm luận, thấy thổ tất có chuyện tốt, thổ chuyện tốt có lớn hay không, vậy phải xem nguyệt lệnh. Nếu như nguyệt lệnh là các tháng Hợi Tý Sửu Dần Mão Thìn, thổ là thổ tử không có cứu, có bản lĩnh, nhưng thành tựu không lớn. Nếu như thủy ở tháng Hợi Tý Sửu Dần Mão Thìn, thấy thổ, mà thổ là sống, chỉ cần có hỏa sinh, hoặc là có kim khắc mộc, tức là tổ hợp thổ hỏa hoặc là thổ kim, tất có thành tựu lớn.

– Ví dụ tổng hợp luận mệnh

Luận mệnh nắm những phương pháp cơ sở này học tốt, càng ngày sẽ càng nhanh, luận mệnh chân chính chủ yếu là xem vài chữ, hoặc là lấy nguyệt lệnh làm trung tâm, hoặc là lấy nhật can làm trung tâm, hoặc là lấy cục bộ làm trung tâm. Sau này luận mệnh chính là luận như vậy, bất cứ con người sự vật nào cũng đều phân ra Cá thể, Cục bộ, Chỉnh thể.

Luận mệnh có 3 điểm thiết nhập, bạn thích hoặc là có thói quen lấy loại phương pháp nào cũng được, kết quả cũng đều như nhau. Trọng tâm ở bất cứ loại phương pháp nào, bất kể lấy chỗ nào làm điểm thiết nhập, lấy nguyệt lệnh hoặc thế cục hoặc nhật can làm điểm thiết nhập đều có đặc điểm, nhất định phải đồng thời xem Hình và Khí, trong đó Khí định đại cục sinh tử cát hung, Hình xem quá trình cát hung nhân sự.

VD 3 Càn tạo: Quý Sửu, Ất Mão, Bính Ngọ, Nhâm Thìn (Dần Mão không)

Tháng Mão là tháng Thiếu Dương, Thiếu Dương thấy dương, nhật can là Bính hỏa, vốn là người tất có thành tựu, nhưng mà trụ giờ thấy Nhâm Thìn, Nhâm thủy khắc Bính hỏa còn có ngày nỗi danh sao? Chỉ có đi làm thuê, hơn nữa còn phải chú ý có kiện tụng lao tù.

VD 4 Càn tạo: Canh Tý, Mậu Dần, Bính Dần, Nhâm Thìn (Tuất Hợi không)

Lúc này là một người rất có tài năng, mở qua công ti, từng viết sách rất nỗi tiếng, cuối cùng cũng không rất lý tưởng, thân thể cũng không quá tốt,có mấy lần hôn nhân và khẩu thiệt kiện tụng.

Tháng Dần thấy Bính hỏa, nhật can chính là Bính hỏa, tất cả dương đều xuất hiện, bản thân là Bính hỏa, bản thân phải chăng là rất có tài hoa? Nhưng mà tài hoa bao nhiêu, có thể hiện không, có thể lộ diện hay không chứ? Bính Dần bị Nhâm thủy khắc, Nhâm thủy tọa dưới có căn, có căn ở trụ năm, độ khó lộ diện ra là rất lớn. Mậu thổ vốn là có thể chế thủy hộ Bính, bởi vì bản thân nhược và quan hệ tổ hợp, chỉ có ở đại vận hỏa thổ vượng mới có thể phát huy chút tác dụng, cho nên ở vận hỏa thổ phát qua chút tiểu tài có chút xuất danh, qua vận thì không có. Thiếu dương không thành dương, thân thể nhất định cần phải chú ý.

Biết chỗ này, luận mệnh thì rất đơn giản, mọi người chịu khó suy nghĩ một chút. Hai bát tự này đều là có tài hoa, nhưng chính là không lộ diện. Nếu như bản thân nhật can của chúng nó là Nhâm thủy trực tiếp đi khắc Bính hỏa, lại không có thổ chế, tất là không có bản lĩnh mà là một người bại gia bại tử. Là bản thân dẫn đến, nắm can dương tiêu diệt hết, chính là kẻ ăn chơi trác táng. Hiện tại chỗ bọn nó nỗ lực, cũng rất có tài hoa, nhưng chính là khó ra mặt.

Vì vậy luận mệnh nhất định phải học thông, đừng tưởng rằng toán mệnh là một loại thuật, một phương pháp. Nếu như chỉ là một loại thuật, một phương pháp, thì khắp nơi đều là đại sư mệnh lý. Còn trên sự thực là không phải như vậy, qua nhiều năm như vậy, dường như rất ít người học có chỗ thành tựu, nguyên nhân là sao? Bởi vì mệnh lý không phải là thuật, nhất định phải biết chỉnh thể bát tự là ở đâu, quy luật là ở đâu. Đó chính là Thiên mệnh, Địa mệnh, Nhân mệnh. Chỉ cần đem nắm chắc cơ sở, từ tam mệnh Thiên Địa Nhân đều có thể luận mệnh, nghĩ thế nào đều có thể luận, chỉ qua là phân công cả 3 cái là khác nhau. Bất kể là Thiên mệnh, Địa mệnh, Nhân mệnh đều có Hình pháp và Khí pháp, Khí là định đại cục, Hình là luận quá trình thủ tượng.

Đây chính là tại sao trên xã hội có nhiều phương pháp luận mệnh như vậy, chỗ những phương pháp luận mệnh này đều cho là bản thân rất lợi hại, người khác là sai lầm, nhưng mà trên thực tế đều khuyết hãm rất lớn, ai cũng không phục ai. Tại sao ai cũng không phục ai chứ? Bạn nói cách cục rất lợi hại, nhưng ngoài trừ định vị đại cục danh lợi thuộc tính xã hội ra, thì những cái khác là không có nắm chắc. Bạn nói Thái Cực rất lợi hại, là thiên hạ đệ nhất, từ xưa đến nay người ở dân gian học tập âm dương Thái Cực pháp không ít, cũng không có gặp đến cao thủ nào, duy trì mà thôi. Thái Cực phân ra Tiên thiên Thái Cực và Hậu thiên Thái Cực, chỉ biết bộ phận Hậu thiên Thái Cực, tham gia mua bán làm ăn toán mệnh đều không tốt.

Bạn nói phép cân bằng vượng suy là tốt nhất, bởi vì đơn giản nhưng có thể đoán rất nhiều quan hệ nhân sự, xác thực là phép này theo trào lưu gần 20, 30 năm, nhưng mà chỗ khuyết hãm mọi người đều quét sạch, rất nhiều sự tình căn bản là không đoán ra, phú quý bần tiện, thọ yểu sinh tử, chân tướng cuộc đời cùng đại sự căn bản đều đoán không được, làm tâm lý tư vấn có thể thay thế, rời xa mệnh học chân chính cũng chính là học âm dương kém đến quá xa. Bởi vì nó là từ Nhân đạo thuộc tính xã hội tức là bắt tay vào định vị xã hội cùng quan hệ nhân sự, chỉ là nhập môn mệnh học mà không phải là kết quả.

Bắt tay vào Nhân đạo chính là thủ tượng, bắt tay vào Thiên đạo chính là định đại sự, bắt tay vào Địa đạo chính là xem sự kiện chủ yếu cả đời.

Chúng ta biết luận mệnh là nói toàn bộ quá trình và kết quả của đời người, hoặc là nói toàn bộ sự kiện Cá thể, Cục bộ và Chỉnh thể. Cả 3 cái Cá thể, Cục bộ, Chỉnh thể sử dụng làm sao? Liên quan đến cái phương pháp nào? Chủ yếu luận sự tình gì của cả đời? Những cái này đều phải dừng lại cụ thể đi đến ở trong bát tự.

– Ba điểm thiết nhập để luận mệnh

Trước tiên nói 3 điểm thiết nhập luận mệnh. Từ xưa đến nay có rất nhiều phương pháp, từng loại phương pháp đều có tác dụng có thể lưu truyền sử dụng kéo dài, đều có trình độ luận mệnh nhất định, thì ở góc độ nào đó đều không có sai. Nhưng mà bản thân mỗi điểm thiết nhập đều có tính giới hạn của nó, đều có sở trường cùng chỗ khuyết hãm, nếu như trình độ của bạn không phải là rất cao, lấy đơn độc một cái điểm thiết nhập đi luận mệnh, luôn chỉ có thể luận một bộ phận mà không phải là toàn bộ cuộc đời. Nhưng nếu như có đủ thấu hiểu đạo lý, như vậy, bất kỳ một điểm thiết nhập nào đều vừa có thể luận một bộ phận nào đó của cả đời, lại có thể luận chỉnh thể cũng chính là toàn bộ cuộc đời, đương nhiên người như vậy là cực ít. Như vậy đối với chỉnh cá bát tự giải được đặc biệt thấu triệt, chỉ có ở lúc sau khi nắm chắc hoàn toàn Thiên Địa Nhân, Thái cực âm dương, Ngũ hành Thập Thần, Tiên thiên Hậu thiên, Thể Dụng Hình Khí, một điểm thiết nhập sự tình nào cũng có thể luận.

Bản thân của mỗi điểm thiết nhập đều có sở trường riêng, cũng chính là phân công, nhưng lại khó tránh khỏi tồn tại tính giới hạn. Mỗi điểm thiết nhập căn cứ vào đặc điểm của nó, khẳng định là có sở trường riêng của nó, có đủ luận đoán dễ dàng một vài sự tình, nhưng mà luận những sự việc khác thì không dễ dàng như vậy. Vì vậy nhìn trên xã hội hiện tại, lấy một điểm thiết nhập, có thể đủ luận toàn bộ cuộc đời vẫn là không thể có được, chỉ là luận một phương diện nào đó mà thôi.

Như Thần Sát, Nạp âm chính là lấy một loại bổ sung khi luận mệnh, có lúc luận tính cách rất chuẩn, như Đào Hoa, Dương Nhận, Văn Xương, Tướng tinh, là một loại bổ sung khi luận mệnh, nhưng không thể luận mệnh toàn diện, càng không thể luận đoán toàn bộ phú quý bần tiện, thọ yểu cát hung, bao gồm cả sức khỏe tật bệnh đều không luận được.

Cách Cục pháp cũng như vậy, chủ yếu định vị thuộc tính xã hội cả đời như phú quý bần tiện, nhưng thọ yểu cát hung căn bản thì không thể luận. Từ góc độ thủ tượng Cách cục còn có thể luận một chút về công việc đơn vị, còn rất nhiều những phương diện khác đều không luận được, như hình thể tướng mạo căn bản không luận được, tình cảm hôn nhân cũng là miễn cưỡng gắn gượng mà luận.

Thái Cực pháp cũng như vậy, Thái Cực là phương pháp ở tầng tối cao, định vị phú quý bần tiện, thọ yểu cát hung cả đời rất lợi hại, nhưng mà phải đi thủ tượng, bao gồm cả hình thể tướng mạo, tính cách, công việc nghề nghiệp tượng đơn giản như vậy đều không xem được. Phải thủ tượng nếu như kết hợp với những cái khác đương nhiên là có thể được, nhưng không phải là sự tình thuần túy Thái Cực, mà là những nội dung khác ở trong đó.

Vì vậy hiện tại điểm thiết nhập luận mệnh nhiều như vậy cũng chính là nhiều phương pháp như vậy, tất cần phải phân loại, nếu không sẽ rối loạn. Điểm thiết nhập nhiều như vậy, các thuyết đều có lý, thậm chí bài xích lẫn nhau, đều cho là bản thân là tốt nhất là đệ nhất thiên hạ, nhưng trên thực tế đều có khuyết hãm rất lớn. Bởi vậy chúng ta phải phân loại, tổng cộng có mấy điểm thiết nhập lớn, mỗi điểm thiết nhập có ưu thế chỗ nào, khuyết hãm ở chỗ nào. Biết những chỗ này, luận sự tình gì, thì có thể lấy điểm thiết nhập nào. Giống như luận tướng mạo tính cách con người, quan hệ xã hội, quan hệ nhân sự chính là lấy thập thần làm điểm thiết nhập, chính là xem thập thần.

Nhưng nếu như xem cá tính, đặc trưng, đen trắng xấu đẹp của một người khẳng định là phải dùng đến ngũ hành, còn thập thần là không được. Thập thần cũng không luận thiện ác con người, tính chất công việc, chỗ kiếm tiền là hợp pháp chính đáng hay là bất chính không hợp pháp. Thập thần Tài tinh là thuộc tính xã hội, phát tài, nó không quản tiền của bạn tới thế nào, còn ngũ hành là thuộc tính tự nhiên, có thể tìm đến căn nguyên, chứng kiến số tiền này là đến chính đáng hay là bất chính, có nên hay không nên, về sau có báo ứng hay không.

Ví dụ như Ấn tinh đại biểu trưởng bối, chỗ dựa, cha mẹ. Dụng Ấn phải xem vượng suy còn có hỉ kỵ, xem không ra tình cảm chân thực của cha mẹ đối với bản thân, cha mẹ là người như thế nào, chỗ này nhất định phải thông qua ngũ hành mới biết được, thì xem chỗ Ấn tinh gặp âm dương ngũ hành nào. Nếu như một bát tự vốn là âm vượng, nhật can là mộc, Ấn tinh là thủy, cha mẹ đối với bản thân là cưng chìu yêu thương, là sự yêu thương sai lầm xuất phát từ sự ích kỷ, bản thân cha mẹ muốn đứa trẻ như thế nào thì làm như thế đó, đây là kiểu yêu thương là làm hại đứa bé, gọi là cưng chìu. Sau này khẳng định đứa trẻ sẽ có trở ngại về tâm lý, là có bệnh.

Lúc âm vượng, mộc rất sợ là thủy, hết lần này đến lần khác đều là thân nhược, từ góc độ thập thần mà nói, ở trên quan hệ nhân sự là rất cần Ấn tinh bảo hộ, nhưng mẫu thân là âm thủy, hết lần này đến lần khác là hại nó, tìm cách dẫn nước cho nó một vài mặt xấu, làm cho nó sản sinh tâm lý trở ngại. Quan tâm đến phương diện sinh hoạt đều là một phần không khoa học, hoặc là phương pháp quan tâm rất ngu muội, khẳng định thân thể đứa trẻ sẽ không khỏe mạnh, hơn nữa sự yêu thương và nỗ lực đối với đứa trẻ đều xuất phát từ lòng ích kỷ. Thủy đại biểu sự nỗ lực nhất định phải có sự báo đáp, bản thân ở trong cuộc sống xã hội cũng không như ý, đem tất cả hi vọng đều đặt vào ở trên thân con cái, xác thực là tất cả tâm huyết nỗ lực giáo dục con cái để trưởng thành, nhưng mà tính mục đích quá mạnh mẽ, tất cả đều muốn đứa trẻ thành tài, thực tế lại là hại đứa trẻ. Cha mẹ là Ấn tinh, đối với trưởng thành cùng sự nỗ lực của đứa trẻ là vô tư, cũng chính là đứa trẻ có đủ khỏe mạnh trưởng thành là được, không cần phải báo đáp, nhưng thủy là không như vậy, tất cần phải có báo đáp.

Nhưng đồng dạng là Ấn tinh, mà là dương, đối với sự giáo dục đứa trẻ thì là đứa trẻ tốt, làm cho đứa trẻ khỏe mạnh trưởng thành, không cần phải báo đáp. Ngũ hành là dương, chỗ nó thể hiện ra chính là sự cống hiến, mà bản tính Ấn chính là sự cống hiến, chỉ cần có nỗ lực mà không yêu cầu báo đáp. Bạn xem, đồng dạng là Ấn tinh, mẹ cùng là dương, phải là đối ứng ngũ hành không giống nhau, đối với sự yêu thương con cái sẽ hoàn toàn không giống nhau. Xã hội hiện thực chính là cũng không được như vậy. Đây chính là mẫu thân.

Cho nên luận mệnh nhất định phải phân ra xem thuộc tính xã hội hay là thuộc tính tự nhiên. Xem điểm thiết nhập thuộc tính xã hội khẳng định chính là thập thần, còn điểm thuộc tính thiết nhập tự nhiên chính là âm dương ngũ hành, là xem nguồn gốc, bản chất và căn bản.

Vì vậy mọi người phải biết, luận mệnh có rất nhiều điểm thiết nhập, bởi vì chỗ phải luận cả đời không phải là một sự kiện đơn nhất, sự tình có phạm vi mức độ ở xã hội, sự tình cũng có phạm vi mức độ ở tự nhiên, thủ tượng có bề ngoài, còn có định vị bản chất cát hung họa phúc, thọ yểu sinh tử. Chỗ cần mức độ dự trắc không giống nhau, điểm thiết nhập khẳng định là khác nhau, sẽ không luận tất cả nội dung đều là một điểm thiết nhập, chỗ này là không thể, cuộc đời không có đơn giản như vậy. Nếu như trong bát tự có đơn giản như vậy, vậy thì cuộc đời cũng phải là hết sức đơn giản, mà trên thực tế cuộc đời là hết sức phức tạp, trên thế giới nhận thức khó nhất cũng chính là con người.

Mọi người hãy tổng kết lại một chút, nhiều điểm thiết nhập như vậy, muốn phân loại một chút, luận mệnh phải phân loại chủ yếu thành mấy điểm thiết nhập nào, đặc điểm mỗi điểm thiết nhập là cái gì? Sở trường là chỗ nào? Giới hạn là chỗ nào?

Luận bát tự có 3 điểm thiết nhập, phương pháp nhiều như vậy, xét đến cùng chính là 3 điểm thiết nhập, 3 điểm thiết nhập này tổng kết một chút, chính là 3 điểm thiết nhập Thiên Địa Nhân. Có thể đi từ Thiên mệnh, hoặc là nói bắt tay từ Thiên đạo. Nói Thiên đạo là gì chứ? Chính là quy luật của trời, nắm chắc quy luật Thiên đạo, thì có đủ đoán ra rất nhiều sự tình cuộc đời. Cũng có thể bắt tay từ Nhân đạo, nắm chắc quy luật con người, khẳng định là có thể luận ra rất nhiều sự tình. Còn có thể bắt tay từ Địa đạo, nắm chắc quy luật thành bại của Địa đạo, khẳng định cũng có thể luận ra rất nhiều sự tình.

Bởi vì con người có Tam Mệnh: Thiên mệnh, Địa mệnh, Nhân mệnh, ma Thiên mệnh làm sao xem? Địa mệnh làm sao xem? Nhân mệnh làm sao xem? Bắt tay từ chỗ nào chứ? Thiên mệnh phải bắt tay từ Thiên đạo, quy luật Thiên đạo là như thế nào chứ? Là tuân theo quy luật của trời, thì biết Thiên mệnh, tuân theo quy luật Địa đạo, thỉ hiểu rõ Địa mệnh, chỉ cần nắm chắc quy luật Nhân đạo, thì hiểu rõ Nhân mệnh.

Biết 3 điểm thiết nhập luận mệnh, 3 điểm thiết nhập đều phải biết là ở đâu, từng cái quy luật thành bại tam đạo Thiên, Địa, Nhân là gì, biết những chỗ này thì biết luận mệnh, đây chính là quy luật.

+ Thiên mệnh

Muốn biết Thiên mệnh thì xem Nguyệt lệnh. Thiên mệnh sở trường nhất là xem đại sự, trước đây quan điểm luận mệnh chính là nói Thiên mệnh, chúng không nên quá mê tín, nhưng trười đất đích xác định đại sự, đặc biệt là trời, mà không phải dừng lại ở đất. Bởi vì Thiên mệnh là chỗ dừng ở Địa, thì định cách đại sự cả đời.

+ Nhân mệnh

Nhân mệnh chính là xem Nhật chủ, chính là nhật can, xem lục thân chính là chỗ cung vị lục thân cùng thập thần. Mê của nam mệnh gọi là Chính Ấn, hoặc là lấy Chính Ấn làm trung tâm, hoặc là lấy cung vị phụ mẫu làm trung tâm, xem mẫu thân chẳng qua là xem như vậy. Xem mệnh chủ, chính là lấy nhật can làm trung tâm, chính là chỗ trước đây chúng ta nói phép cân bằng vượng suy. Nhân mệnh chính là cây hoa cây cỏ, thủ tượng, là tất cả sự việc từng phương diện ở trong cuộc đời, bao gồm cả hình thể tướng mạo, sức khỏe tật bệnh, học vấn công việc, tình cảm hôn nhân, định vị nhân sự, quan hệ xã hội …, đây chính là nhân mệnh. Nhưng cuối cùng nhân mệnh thành bại cùng sinh tử là Thiên mệnh định, là Mưu sự tại nhân, Thành sự tại thiên. Cho nên nói, quá trình cuộc đời là Nhân mệnh, kết cục cuộc đời là Thiên mệnh.

+ Địa mệnh

Địa mệnh là thế cục ở trong bát tự, Địa chính là xã hội hiện thực, chính là thế cục, thế cục ở trong bát tự chỗ nào, đó chính là Địa mệnh, vì vậy Địa mệnh gọi là Thế cục.

Địa mệnh là xem cố định ở trụ tháng, năm đại biểu chính phủ trung ương, tháng đại biểu chính phủ địa phương, nhưng đây là cố định. Chúng ta chân chính xem thế cục khẳng định là linh hoạt, chính là tổ hợp can chi bát tự, chính là dòng chảy của bát tự. Chúng ta biết Lý Khí, chính là chỗ sinh khắc xuất ra khí, nhất định tất cả can chi đều phải sau khi tác dụng nhau cuối cùng là xuất ra từ chỗ tổ hợp đó, hoặc là theo từ dòng chảy của bát tự, khí thế của bát tự, ở chỗ đó chính là Địa mệnh.

Thiên mệnh chúng ta biết, chính là định vị đại cục cuộc đời, Nhân mệnh chính là thủ tượng cuộc đời, là xem những chuyện liên quan với cả đời nhật chủ. Địa mệnh là xem cái gì? Là xem sự tình nào của cuộc đời? Cụ thể xem Địa mệnh bát tự, là phải luận cát hung, Địa mệnh có thể xem ra rất nhiều sự tình.

Địa mệnh là việc ảnh hưởng lớn nhất đối với cuộc đời con người, ảnh hưởng lớn nhất, khả năng là chuyện tốt, cũng khả năng là chuyện xấu. Chính là tổ hợp chủ yếu nhất của bát tự, là khí thế tổ hợp. Vừa nhìn bát tự, tổ hợp chủ yếu là hỏa khắc kim, cả đời người này là làm công tác chấp pháp hoặc là nghiên cứu khoa học. Hoặc tất cả khí của một bát tự đều là thủy sinh mộc, thì cả đời làm tu hành, khá là thanh bần. Hoặc là một bát tự có Dần Tị Thân tam hình, sự tình chủ yếu chính là người này có bệnh mãn tính, hoặc là vợ con có chút vấn đề.

Chỗ nói Địa mệnh, chính là hình thế ở trong bát tự, cũng giống như chúng ta xem phong thủy, là xem hình thế, cuối cùng xem chỗ khí dừng lại. Bởi vì hiện tại chúng ta là xem Hình pháp, chính là hướng chảy khí thế của bát tự. Ngũ hành có thể là thủy sinh mộc, mộc đến cuối cùng là đi khắc thổ, đây chính là Địa mệnh của nó. Hoặc là mộc đi sinh hỏa, hướng chảy cuộc đời chính là thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, gọi là mộc hỏa thông minh, vậy người này chính là cả đời làm nghiên cứu văn hóa. Bởi vì Địa mệnh là xem một vài sự tình chủ yếu nhất của người này ở trong cả đời, khả năng là tốt, khả năng là không tốt, xem tốt xấu là xem dòng chảy của can chi bát tự.

Tổng kết

Đây chính là Thiên mệnh, Địa mệnh, Nhân mệnh, và cũng chính là 3 điểm thiết nhập luận mệnh lớn nhất. Hiện tại trên xã hội có rất nhiều phương pháp luận mệnh, nhưng quy lại chẳng qua là có 3 trường phái, 3 trường phái này đều không hoàn chỉnh, đều có thể cho bản thân mình là rất lợi hại, nhưng rất nhiều người đều không công nhận. Bởi vì xác thực luận mệnh chỉ có thể luận một bộ phận nhỏ, cũng không hoàn chỉnh, mặc dù là có ưu điểm, nhưng mà khuyết hãm qua lớn, vẫn là mệnh lý học không thể toán hoàn chỉnh.

Luận Thiên mệnh, từ xưa đến nay đều là thấy quá nặng nề, luận mệnh thật nhiều đều là lấy Thiên mệnh làm chủ, chính là Cách cục và Thái cực, là tầng tối cao nhất, bởi vì Thiên mệnh có thể chân chính định vị đại cục cả đời, cũng chính là phú quý bần tiện, thọ yểu cát hung.

Nhân mệnh thì là thủ tượng, xu hướng chính trước đây và hiện tại là phép cân bằng vượng suy, lấy nhật can làm trung tâm, chính là luận nhân mệnh. Phương pháp này rất ưa chuộng, mặc dù là ở tầng lớp nhập môn, nhưng dễ dàng học lại có thể luận rất nhiều chuyện chi tiết trong cuộc đời, bao gồm cả hình thể tướng mạo, sức khỏe tật bệnh, học vấn, công việc nghề nghiệp, tình cảm hôn nhân, con cái, quan hệ nhân sự cái gì cũng có thể luận. Vì vậy dường như là một phương pháp rất hoàn chỉnh, nhưng mà vĩnh viễn không nâng lên trình độ, tối đa chỉ là một tiên sinh toán mệnh thông thường. Bởi vì tầng lớp không cao, chỉ là thủ tượng, có thể luận nhiều sự tình cả đời, nhưng mà không phải luận vận mệnh chân chính, cũng chính là nói phú quý bần tiện, thọ yểu cát hung. Đây chính là phép cân bằng vượng suy hiện tại, rất lưu hành, rất thích học, hầu như toán mệnh 10 người thì có 9 người dựa vào một bước này, nhưng mà ở tầng quá thấp, từ đầu đến cuối thì không bước lên được mặt sân khấu, bởi vì không đoán được đại sự, sinh tử, phú quý bần tiện. Chỉ có thể xem ra làm ăn mua bán, là có chức vụ, nhưng đoán không ra đẳng cấp nào. Chỉ có thể xem ra có bệnh, nhưng mà sinh bệnh sẽ không xem được tử vong, đây chính là Nhân mệnh. Vì vậy đối với Nhân đạo mà nói, thích hợp nhất chính là xem Nhân mệnh.

Muốn nhìn thấy Thiên mệnh vậy thì phải ở tầng lớp rất cao, nhất định phải hiểu Lý Khí, không hiểu Lý Khí thì không dùng được, Thiên đạo chỉ có xem âm dương. Còn Nhân đạo thì là xem Nhân mệnh, chỉ xem được Hình mà không xem được Khí.

  • Tường luận Địa mệnh

Địa mệnh là trọng điểm xem cuộc đời con người, trong cả đời sự tình nào ảnh hưởng đối với người này là lớn nhất. Có vài bát tự vừa nhìn thì biết cả đời người này là sinh bệnh, hoặc là cả đời người này bị trói buộc bởi hôn nhân hoặc là con cái. Xem dòng chảy bát tự, tổ hợp bát tự rất không tốt, thì thế chảy sẽ ở khu vực đó, cũng chính là nói cả đời của nó khả năng bị phương diện sự tình này làm hại.

Nhưng ó vài bát tự có thế chảy rất tốt, thế chảy của nó là hỏa khắc kim có thể khá là cân bằng, đặc biệt là hỏa đến từ trụ năm tháng, nguyệt lệnh, khẳng định là người làm việc cơ quan của chính phủ, là người của chính phủ, là quan viên chính phủ, làm nghề chấp pháp cho chính phủ, hoặc là làm ở cơ quan nghiên cứu khoa học của chính phủ.

Hoặc là mộc sinh hỏa, cả đời làm văn hóa nghệ thuật. Hoặc là hướng chảy bát tự là thủy sinh mộc, mộc khắc thổ, cả đời là đau khổ vì hôn nhân gia đình, biện pháp giải thoát duy nhất chính là xuất gia, đi tìm công việc cũng không được, làm việc cũng không bao nhiêu ngày. Thủy mộc vượng đem thổ khắc mất, thổ đại biểu ngôi cao, gia đình, mộc vượng thấy thủy, tính cách lại cố chấp, không thích hợp cuộc sống ở nhân gian. Mà thổ chính là cuộc sống ở nhân gian, vì vậy cả đời sẽ không kết hôn, kết hôn cũng qua cuộc sống hôn nhân không tốt, làm hòa thượng, ni cô, một người làm tu hành, chỗ này là khá tốt, đây chính là chủ tượng cả đời.

Còn có vài bát tự thế chảy chính là kim sinh thủy, tổ hợp lại rất tốt, cả đời là làm ăn mua bán, không quan tâm gia đình, sự nghiệp mua bán chính là nhà của nó, là người mua bán làm ăn thuần túy.

Đây chính là thế cục bát tự, chỗ nói thế cục chính là Địa mệnh, chỗ nói Địa mệnh chính là tình thế xã hội. Địa lớn nhất là chính phủ bản địa, tình thế xã hội, là một luồng trường khí ảnh hưởng lớn nhất đối với con người kéo dài đến trong cuộc sống hiện thực. Phong thủy thuộc về một loại Địa mệnh trong thuộc tính tự nhiên, vì vậy chỗ cư ngụ ảnh hưởng đối với sức khỏe con người cũng là rất lớn.

Nhưng mà Địa mệnh chân chính là phải xem thuộc tính xã hội, bởi vì con người là người trong xã hội, vì vậy ảnh hưởng lớn nhất đối với một con người không phải là xem ngũ hành, trước tiên là phải xem Thập Thần, sau đó lại lấy ngũ hành định vị bản chất. Nếu như tổ hợp bát tự một con người là Thất Sát vượng mà không có chế hóa, nhật chủ và Thất Sát từ đầu đến cuối vẫn là đối kháng, hoàn cảnh xã hội cuộc đời là rất kém hoặc là tham gia nghề nghiệp mang tính chất rất nguy hiểm, cho dù là ông chủ, chính phủ hoặc là xã hội đen cũng phải thường gặp nhiều phiền não tìm đến nó. Người này khẳng định có tính cách rất mẫn cảm, nếu như nhật can là can dương lại có chút căn, khẳng định rất là táo bạo, đặc biệt hỏa kim là dương, khẳng định là táo bạo. Nếu như nhật can là âm, thì người này sẽ khá là thâm hiểm hoặc là cẩn thận có tính toán, âm hiểm là chỗ nào chứ? Bởi vì hoàn cảnh xã hội quá không tốt, nói chung có người tìm đến hắn làm phiền, vậy thì tâm lý đề phòng của nó rất nặng.

Nếu như bản thân là dương, dương đại biểu võ, bạn lúc nào cũng nhằm vào tôi, tôi có căn không phục, thì tính cách sẽ rất táo bạo. Vì vậy tượng nhật can Bính hỏa, Canh kim, đặc biệt lại có căn, gặp đến Thất Sát vượng, khẳng định là có tính cách táo bạo. Bởi vì nó có bản lĩnh, có thực lực, nhưng mà ngoại giới Thất Sát từ đầu đến cuối muốn đến quấy nhiễu nó, nó khẳng định phải phản kháng, bởi vì dương đại biểu phản kháng. Còn âm là không công khai phản kháng, âm là phản kháng trong lòng. Khí dương là luôn hướng lên trên, khí âm luôn hướng bên dưới, bên trong. Giống như người có loại hình này, nếu như là nhật can âm, lại là Thất Sát rất vượng, sẽ trở thành người có rất nhiều mưu kế, làm không tốt bản thân cũng trở thành là tiểu nhân, bởi vì luôn bị người khác bắt nạt, gặp đến tiểu nhân, bản thân cũng thành tiểu nhân.

Tính cách con người là đến thế nào chứ? Là xã hội giáo dục mà ra, xã hội đối với bạn như thế nào, bạn cũng luôn báo đáp cho xã hội như thế đó, do vậy tính cách con người là có thể thay đổi, chỗ này thì có mạnh mẫu tam thiên. Chỗ nói tính cách chính là thái độ của xã hội đối với bạn, sau khi giáo dục đối với bạn, được bạn hấp thu, bạn sẽ trả lời với xã hội là một loại thái độ. Hoàn cảnh giáo dục tốt, tương đối mà nói tính cách cũng tốt. hoàn cảnh giáo dục không tốt, thì tâm lý đối với sự tình nào cũng sẵn sàng đề phòng, bởi vậy nói bầu không khí xã hội phong so với phong thủy còn trọng yếu hơn nhiều.

Tính cách tướng mạo là xem Thập Thần, nhưng da đen trắng thô mềm, thiện ác xấu đẹp con người là xem ngũ hành, đây là bản chất. Một bát tự cho dù có Thực thần, Quan tinh, đều là Cát thần, tương mạo nhìn qua phải là rất cát tường và xinh đẹp, nhưng Thực thần, Quan tinh đối ứng ngũ hành là âm thủy không có chế, người xem qua tướng mạo rất đoan trang, buông lõng, nhưng mà da rất đen. Ngũ hành là bản chất, không thay đổi, đại biểu chất lượng da, nhân tâm thiện ác. Thiện ác con người, nội tâm là chỗ linh hồn quyết định, giáo dục không thay đổi thiện ác, nhưng giáo dục có thể ức chế, kích thích thiện ác, có thể ức chế cái ác nâng cao cái thiện là thành công.

Nhân chi sơ tính bản thiện câu này là đúng, con người chính là mộc, bản tính thiện, con người luôn hướng đi lên, nhưng con người là từ âm tà chuyển hóa qua, gốc rất là ác. Bởi vậy con người đều là ích kỷ tự lợi, nếu như bầu không khí xã hội không tốt, thì ác sẽ được kích thích ra, nếu hoàn cảnh xã hội tốt, ác sẽ còn có, nhưng nếu củng cố cái thiện, để đem ác ức chế, không ngoài chính là như vậy. Đến cuối cùng thiện rất nhiều, nắm cái ác khống chế được vững vàng, đây chính là người đại thiện.

Trước đây chúng ta nhận thức đối với Địa mệnh, trong đó Thái Cực có thể lý giải Địa mệnh, chỗ nói Địa mệnh chính là chủ khí của đất, sinh khắc xuất ra khí, đây gọi là khí thế cục. Hình pháp nói Địa mệnh là cái gì, khả năng lý giải rất không đúng. Hình pháp Địa mệnh có thể kéo dài, Địa đại biểu chính phủ bản địa, tình thế xã hội, nhân sự kéo dài là ảnh hưởng lớn nhất đối với con người, đây chính là Địa mệnh. Bởi vậy có vài người xem thế cục bát tự và tổ hợp chủ yếu thì có thể biết người này đại khái là loại nào, đời này nhân sự nào là bạn quan tâm nhất, hoặc là quyết định cuộc đời của bạn sự kiện chủ yếu là cái gì, đây cũng là rất trọng yếu.

Địa mệnh chúng ta cũng phải sẽ xem, có vài người cả đời thì bị trói buộc chỗ một sự kiện nào đó, hoặc là có vài người cả đời thì chỉ theo đuổi một sự kiện nào đó. Đặc biệt chúng ta xem hôn nhân và con cái, có vài người cả đời thì bị chỗ hôn nhân làm hại, bị chỗ con cái quấy nhiễu, hoặc là có vài người cả đời luôn có thân thể không tốt, có tàn tật, có bệnh, cả đời thì luôn bị chỗ bệnh này hủy diệt. Chỗ này đều là xem thế cục, Thái Cực thì xem không được. Thái cực chỉ có thể định ra mệnh đoản thọ, cuộc sống không tốt, cụ thể sự tình nào thì cần thủ tượng, thế cục trong thủ tượng là sự kiện chủ yếu nhất trong cả đời.

Tất cả phương pháp luận mệnh trên xã hội, tổng hợp lại, chẳng qua đều khái quát ở trong 3 điểm thiết nhập, hoặc là thiết nhập từ Thiên đạo, hoặc là thiết nhập từ Địa đạo, hoặc là thiết nhập từ Nhân đạo. Thay đổi như thế nào đi nữa đều không thoát ra khỏi 3 điểm thiết nhập Thiên Địa Nhân. Nếu như thoát ly khỏi Thiên Địa Nhân, chỉ qua là một phần phụ trợ, như Thần Sát, Nạp âm không thể luận mệnh hoàn chỉnh, đưa đến một chút tác dụng phụ trợ mà thôi.

Hai, Hai tác dụng lớn của can chi trong Khí pháp

Chúng ta biết Thiên Địa Nhân là có phân công, như lấy điểm thiết nhập Thiên đạo, có thể định vị rất nhanh tầng thứ cuộc đời. Cổ nhân đã đem nó chỉnh lý thành phương pháp, đó chính là Cách cục và Thái cực, đều là nói Lý Khí, khá là khó học, đặc biệt là Thái Cực. Đối với Thái Cực pháp mà nói, hai tác dụng của can chi là cái gì? Sau đây là tổng kết lại một chút.

(Một) Can chi là tái thể, hóa thân cùng lạc thực của âm dương

Can chi đối với Thái Cực pháp hoặc là đối với Cách cục pháp mà nói, là công cụ của Lý Khí, cũng là tái thể (là vật dẫn) của âm dương, lại thêm nói hình tượng một chút là hóa thân của âm dương, là lạc thực (là nơi cư trú hoặc là nơi dừng lại ) đối với khí âm dương. Can chi chẳng qua đối với Thái Cực mà nói là có 2 tác dụng lớn: Một là, là nơi lạc thực đối với khí âm dương. Ví dụ như hỏa lạc thực là khí dương, thủy lạc thực là khí âm, hỏa lạc thực khí dương rất nhiều, thủy lac thực khí âm rất nhiều. Kim mộc thổ đều có phân công, Mậu thổ lạc thực là khí dương, Kỷ thổ lạc thực lấy khí âm làm chủ. Kim mộc là Thiếu Âm Thiếu Dương, khí âm khí dương đều có lạc thực, Thiếu Âm Thiếu Dương đang trong lúc biến hóa, khí âm dương đều có, không giống thủy hỏa thổ rất đơn nhất. Thủy chính là lạc thực khí âm, lạc thực rất nhiều khí âm, hỏa thì lạc thực rất nhiều khí dương. Mậu thổ đều là khí dương, Kỷ thổ nửa âm nửa dương.

Mộc lạc thực khí âm nhiều, khí dương ít, nhưng mà khí dương chỉ ló đầu ra một chút xíu, trên thực tế lạc thực là khí âm, bởi vậy mộc là rất dẫn tới âm. Cho nên trong bát tự mộc vượng gặp đến thủy, là thể phụ rất nhiều. Vì thế có vài loài cây trong không trồng được, rất nhiều loại cây là dẫn khí âm, nhiều loại giống cây trồng, hộ gia đình này là âm sẽ rất nặng. Đặc biệt là có vài loài cây, vừa nhìn chính là khí âm quá đủ, không thể trồng được. Do vậy ở trước và sau nhà khi trồng cây đặc biệt phải chú trọng, nhất là hộ gia đình có khí âm nặng, có trồng rất nhiều cây là không thể trồng được.

Còn kim là vật trừ tà, đại biểu là tảng đá sư tử, đao thương kiếm. Kim bề ngoài là âm, nhưng thực tế là dương, nhận tải khí dương nhiều hơn so với khí âm. Nhưng khí âm có một ló ra ngoài, bề ngoài thấy âm rất lạnh, nhưng trên thực tế là trừ tà. Chỉ có số ít mộc có khí dương rất đủ mới có thể trừ tà, còn đa số mộc đều là nhiều âm, vì vậy trong cây bụi rậm có tà quỷ rất nhiều, đặc biệt là cây bụi rậm ven sông. Nhất là nhà ở ven sông, dưới tình huống bình thường trước và sau nhà thì không thể trồng cây, vừa trồng cây thì mang theo khí âm quá nặng, con người rất dễ dàng sinh bệnh, đặc biệt là nữ nhân dễ dàng sinh bệnh. Vì vậy mộc thì lấy nữ nhân xem, kim thì lấy nam nhân xem.

Nhưng mà có vài mộc thì có thể trồng, nó là nhận tải khí dương, chủ yếu đại biểu khí dương. Loại nào thì cây cối là âm? Loại nào cây cối lấy dương làm chủ?

Bát tự âm vượng nhất định phải chú ý, trong nhà không thể trồng quá nhiều cây cối, mộc là âm, không phải là dương. Nhưng có vài cây là dương, trồng cây này cũng có âm, chỉ qua là khí Thiếu Dương thể hiện rất thịnh vượng, thì lấy dương xem. Vì vậy lúc luận Thái Cực Hậu thiên mộc là âm, nhưng nếu như mộc sinh hỏa, vậy không thể thành dương được, hỏa là dương, mộc sinh hỏa đem phù trợ khí dương, còn lúc mộc khắc thổ thì âm rất nặng.

Trồng cây đều phải chú trọng, bởi vì cây phân chia âm dương. Kim cũng phân thành âm dương, nhưng nhìn đãn tổng thể mà nói vẫn đều lấy dương xem, nhưng có vài cái cũng là có chút khí âm, Tân kim rõ ràng thiên hướng về dương, Canh kim vẫn có chút âm.

Xinh đẹp, nở hoa kết quả, là mộc hỏa thông minh, lấy dương làm chủ. Có vài loài cây khá là thấp bé, bóng cây rất lớn, chỉ có lá dài, khí âm đặc biệt rất nặng. Cao to thô khỏe là dương, có loài dây leo khá nhỏ là âm. Dương đại biểu đơn giản, cao to thô khỏe đại biểu đơn giản, lá cây không thể quá nhiều, quá tươi tốt khẳng định là không có. Dương đại biểu đơn giản, cao to, thô khỏe, nhưng mà lá cây không nhiều. Âm đại biểu phức tạp, thấp bé, không hấp dẫn. Cành lá nhiều gai đâm ra thì lá sẽ không nhiều, thuộc về dương. Vẫn có quý danh là dương, khá thấp kém phổ thông là âm. Chỗ này nhất định mọi người phải chú ý, đặc biệt là cây bên bờ nước khí âm rất nặng, do vậy chỗ có cây cối mọc ở bên bờ nước, mùa đông cố gắng bỏ đi, vì rất dễ dàng tà khí nhập thân. Bờ nước thuần túy hoàn hảo, mặc dù khí âm nặng, nhưng mà không có phụ thuộc. Chân chính vật tà âm là bám vào đồng cỏ bờ nước, trên cây cỏ.

Nhất định phải biết, can chi có 2 tác dụng lớn, một là tái thể âm dương, bởi vì can chi là hóa thân âm dương. Âm Dương là khí, khẳng định phải có hóa thân, cho nên con người cũng phân ra thành người có khí âm vượng và người có khí dương vượng. Người có thủy mộc vượng ít hỏa thì thích an tĩnh, âm thanh lời nói cũng khá là nhẹ nhàng, nhìn qua người khá là nhu hòa, đặc biệt là Ất mộc rất nhu hòa. Còn Giáp mộc có khí dương cương, nhưng mà nói một bát tự có hỏa vượng, Mậu thổ vượng, hoặc là kim vượng lại là nhật can, khí dương đủ thì âm thanh lời nói đều rất nặng.

Con người phân ra làm người âm và người dương, bất cứ sự vật nào cũng phân ra âm dương, loại người nào thì nhận tải khí nào, con người có khí trường, vì vậy con người là có duyên phận, con người có người thì có duyên phận rất tốt, có người thì nói không tốt, khí trường tương xung làm sao có thể nói được, đây cũng chính là xuất hiện có vài người cùng ở với nhau sẽ khỏe mạnh, có vài người cùng ở với nhau thì sẽ khắc nhau, chính là chỗ cổ nhân nói phối bát tự. Đương nhiên là có chú trọng, phải có trình độ, không nên phối loạn, là phối khí trường, không phải là những chuyện khác.

Nhất định phải biết can chi trước tiên là tái thể của âm dương, vì thế có thể trực tiếp thủ tượng, trực tiếp có thể định âm dương. Đối với phép Lý Khí mà nói, âm dương cũng phải lạc thực. Tháng Dần Mão khí âm còn nặng, khí âm nặng thì phải lạc thực, lạc thực phải thấy thủy mộc, Kỷ thổ, như vậy khí âm sẽ cư trú.

Vì vậy trước tiên tác dụng thứ nhất của can chi là hóa thân âm dương, cũng gọi là tái thể của âm dương, chỗ này là rất trọng yếu, nhất định cần phải biết. Bởi vì trước khi biết Lý Khí nhất định phải biết khí âm dương, ngày cả khí âm dương cũng đều không biết thì không có cách nào biết phép Lý Khí. Bởi vì Lý Khí phải có mục tiêu, muốn Lý xuất ra Khí nào, Lý xuất ra khí nào tốt, Lý xuất ra khí nào không tốt. Mà chỗ này phải thông qua Nguyệt lệnh, nhưng Nguyệt lệnh rất là phức tạp, chính là 4 mùa xuân hạ thu đông, khí nguyệt lệnh phải có tải trọng mới được.

Giống như mùa đông rất giá lạnh, nhưng sẽ không vô duyên vô cớ mà hàn lạnh, ở lúc nào là sẽ thể hiện hàn lạnh? Có tải trọng thì sẽ thể hiện hàn lạnh. Mùa đông rất hàn lạnh, thông qua cái gì để thể hiện? Mà có những địa phương mùa đông cũng không có chút nào là lạnh, bởi vì khí âm không có tải trọng thì là không lạnh. Mùa đông phải hàn lạnh, cần phải thông qua phương thức nào để thể hiện?

Nhiệt độ thấp là một phương diện, nếu như hàng ngày ở bên trong phòng điều hòa thì cũng không lạnh. Hàn lạnh thông qua gió sương mưa tuyết để thể hiện, vì vậy mùa đông gió thổi tuyết rơi, lại không có ánh thái dương thì rất lạnh. Nếu như sinh ra ở mùa đông, thiên can lại là thủy mộc, Kỷ thổ, hoặc lại là Canh kim sinh thủy, thì thời tiết rất lạnh

Sinh ở mùa đông, nhưng khí âm không lạc thực (rơi xuống), thiên can đều là xuất hiện Bính hỏa ánh dương cao chiếu, đại biểu trời nắng ráo, nhiều mây Mậu thổ, ánh sáng dương chiếu cao nắng tốt, đều là hỏa thổ, thì làm sao lạnh chứ? Mùa đông ở địa phương như vậy một chút đều không lạnh, giống như hàng ngày ở trong phòng điều hòa nhiệt độ, trong nhà, trong đơn vị đèn sáng đều đặc biệt sáng tỏ. Bính hỏa là Thái dương, Đinh hỏa là đèn sáng, sau khi hỏa đi sinh thổ, thổ là ngăn hàn, từ đầu đến cuối đều ở trong phòng điều hòa nhiệt độ.

Kỷ thổ ở trên trời đại biểu mây đen, mây đen là âm, dự báo trước trời muốn mưa. Còn Mậu thổ ở trên trời đại biểu mây màu và mây trắng, là mặt đối lập với mây đen, có thể xua tan mây đen. Mậu thổ ở dưới đất là phòng điều hòa nhiệt độ, phòng không có thoáng gió và ấm áp, ở trong phòng gian gió cũng không thổi đến, bên trong mở điều hòa không khí, căn bản là sẽ không lạnh. Mặc dù ở mùa đông, nhưng mà thiên can đều là hỏa thổ, mỗi ngày đều là đại thái dương, trên trời đều là mây trắng bay, cũng không có gió, đặc biệt lại có kim, kim khắc mộc, một chút gió cũng đều không có, khí trời hết sức tốt. Hơn nữa Mậu thổ đại biểu công năng căn phòng sưởi ấm rất tốt, hàng ngày ở trong phòng điều hòa không khí, mặc dù là mùa đông, nhưng mà chút khí lạnh đều không rơi xuống, một chút cũng không lạnh, thậm chí giống như mặc đồ lót vào mùa hè.

Vậy có vài bát tự mặc dù sinh ở mùa hạ tháng Tị Ngọ Mùi, hàng ngày gió thổi trời mưa, có lúc cũng rất lạnh, thậm chí rất lạnh. Mỗi ngày là gió thổi trời mưa, mây đen đầy trời, cũng là lạnh, từ khô đến lạnh. Một là thủy, một là mộc, mộc đại biểu gió thổi, đặc biệt là Ất mộc, gọi là gió âm hàn, âm phong. Giáp mộc đại biểu sấm, đồng thời cũng đại biểu gió. Vì vậy thủy thấy mộc gọi là phong thấp, rất thấp hàn.

Những nội dung này mọi người có thể tiếp diễn, thủy đại biểu tuyết rơi, mưa rơi, mộc đại biểu gió thổi, Kỷ thổ đại biểu mây đen, mặc dù tháng Tị Ngọ Mùi, khí dương rất vượng, nhưng mà không dừng lại, thiên can đại biểu khí dương là Bính Đinh hỏa, không có Bính Đinh hỏa, tải trọng rất nhiều khí dương Mậu thổ cũng không có, tải trọng khí dương khá nhiều kim cũng không có. Khí âm rất vượng, nhưng mà khí âm không rơi xuống, thì giống như mặc dù đến mùa đông, nhưng khí trời thủy chung rất tốt, không có gió sương mưa tuyết, cũng sẽ không cảm đến khí trời hàn lạnh rõ ràng.

Vì vậy nhất định mọi người phải biết, can chi là hóa thân của âm dương. Âm dương là nơi Thiên đạo, nhất định phải đến thể hiện ở Địa đạo và Nhân đạo, có tải trọng, vậy đó là can chi. Tác dụng lớn thứ nhất của can chi nhất định phải phá giải, nếu không ngay cả thủ tượng cũng phải đi nghịch, phá giải thì sẽ không cùng nghịch. Âm đại biểu cái gì, dương đại biểu cái gì, là có quy luật.

(Hai) Can chi là công cụ của Lý Khí

Tác dụng thứ hai của can chi chính là công cụ của Lý Khí, Lý Khí có tiền đề chính là hóa thân hoặc là tái thể lạc thực của âm dương, sau khi lạc thực tiếp theo là không cần quản hỏa là dương, mộc là âm, hỏa khắc kim thì xuất ra khí mộc, mộc khắc thổ thì xuất ra khí thủy. Tác dụng thứ hai là ở làm tái thể âm dương, sau khi định vị âm vượng và dương vượng, tiếp theo là không xem xét nó là tái thể âm dương, mà là công cụ của Lý Khí.

Vì vậy hỏa là có thể khắc kim, nếu không cho rằng hỏa là dương, kim cũng là dương, làm sao khắc chứ? Hỏa có thể khắc kim, không cần dùng âm dương, chính là công cụ Lý Khí. Can chi sứ mệnh thứ nhất đã hoàn thành, đã đem quyết định âm vượng hay là dương vượng, sau khi quyết định thì phải lý khí (thông khí), cuối cùng xuất ra chủ khí địa chi là một luồng khí nào. Đây chính là hai đại công năng của can chi.

(Sưu tầm)

» Dịch vụ tư vấn tứ trụ chuyên sâu

Bình luận